Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2010

074 - THÚY - KIỀU YÊU AI VÀ AI YÊU ? - NGUYỄN VĂN SA.


THÚY - KIỀU
YÊU  AI  VÀ  AI  YÊU ?


Không kể „kiếp trước“ của Kiều (1) vốn đỗi vô danh ở bên Trung Quốc. Chỉ tính riêng tuổi Kiều từ khi nức tiếng, do được tái sinh và nhập tịch „làng Nôm“ nước Việt đến nay đã ngót hai trăm năm. Chúng ta dường như vẫn rất mờ mịt, về việc : ai trong số những gã mày râu đi qua đời người kỹ nữ này, thực sự yêu nàng và được nàng yêu ? 
Bảo rằng đối tượng „phải lòng“ Kiều trước tiên là Kim Trọng e có điều chi chưa ổn, chính xác phải là nhân vật khác kia. Nhân vật từ một cõi xa lắc xa lơ nào đó, từng truyền âm nhập mật lệnh cho thần bút nhà Nguyễn nặn ra số phận bỉ sắc tư phong của cô gái nghiêng nước nghiêng thành. Một vị khách thuộc hàng VIP ấy, tức… ông Trời - bằng không, sao có sự „quen thói má hồng đánh gehen“ và xuất hiện đúng vào thời điểm xấp xỉ xuân xanh của nàng tiểu thư họ Vương cơ chứ ?
Nguyễn Du tiên sinh rõ khéo nhún mình, mời mọc một khách tình si tự chín tầng mây xuống cõi ô trọc chỉ để tiếp thị một tài sắc. Nhưng có sự tiếp thị hay công chứng nào cho một sản phẩm mà không đòi hỏi ít nhiều sự hàm ơn và trả giá. Trớ trêu thay thiên cơ bất khả lậu, nên Kiều chẳng mảy may ý thức tầm quan trọng của sự không biết đền ơn và trả giá. Thế là chưa kịp nếm mùi yêu đương, Kiều đã chịu một trận đòn thù gián tiếp nhân danh cái nghiệp :

Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng  đừng  trách  lẫn  trời  gần  trời  xa.

Yêu người vốn đã khổ, bị người yêu mà „người“ ấy chính là… ông Trời, thêm khổ bội phần. Bước đầu Kiều bị tước đoạt ngay cái quyền chọn lựa, vì nếu được chọn lựa sao Kiều lại lựa chọn cách sống cách yêu lạ lùng đến thế :

Ngẫm  hay  muôn  sự  tại  trời,
Trời  kia  đã  bắt  làm  người  có  thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao, mới  được phần thanh cao.

Ông trời quả thật khác thường, tự thuở êm đềm trướng rũ đã nhẫn tâm đẩy người mình yêu vào vị thế nạn nhân của nạn ong bướm đi về. Không chỉ quen khuynh loát phận người, ông trời xem ra còn khá thấm nhuần thứ triết lý rất thực của kẻ trần gian “không lấy thì khuấy cho hôi” để thỏa lòng hậm hực. Thay vì là đối tượng được yêu trong mắt nhìn của người đẹp nhân thế, ông trời dẫu cao sang song dị chủng hẳn nhiên rất khó với Kiều có sự… đồng thanh tương ứng !
Trời là để vâng phục, tiếc thay chỉ vâng phục thôi… đâu có nghĩa là yêu ? Biết bao cung tần mỹ nữ ngày xửa, ngày xưa hí hửng “vào nội” - để tiêu phòng lạnh lẽo chỉ sau “cái đêm hôm ấy đêm gì” - họ chẳng đã chờ đến mỏi mắt một cái gật đầu của đấng chí tôn là… buồn ơi chào mi dịch vụ nâng khăn sửa túi, trở về cố hương sống cuộc sống dân dã một vợ một chồng đó sao ?
Cơ hội tưởng như hồ dễ ấy, ngỡ đã sớm đến với Kiều trong dịp thanh minh. Bên nấm mộ tiêu điều của nàng kỹ nữ đàn chị quá cố Đạm Tiên, giữa lúc đang dùng dằng nửa ở nửa về chợt dưng :

Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng.
Đề  huề  lưng  túi  gió  trăng ,
Sau  chân  theo  một  vài  thằng  con  con.

Kim Trọng, ứng viên đạt chuẩn “có thịt có da” dáng dấp ra chiều môn đăng hộ đối :

Nền  phú  hậu  bậc  tài  danh
Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Tuy nhiên có cường điệu quá không, khi cách quãng giữa Thúy Kiều và cậu út Vương Quan vẫn còn một nàng thứ Thúy Vân trang trọng ? Thử hỏi là bạn với một “chữ” đang tuổi thiếu nhi nhi đồng như Vương Quan, thì Kim Trọng trình độ đến đâu để mà :

Phong  tư  tài  mạo  tót  vời,
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.

Khiến lúc vừa gặp chẳng ai bảo ai đều dưới hoa nép vào, riêng Kiều lại còn nghé theo khi… “khách đà lên ngựa” ? Nguyễn Du ắt muốn khơi mào một chấm hỏi “lăng xăng như bướm, lượm đượm như dầu” về một Thúy Kiều trôi nổi sau này ? Có thể lắm bởi biết đâu, tiềm ẩn ở cô ả một gène-tính Thị Mầu nên mới “rộn đường gần với nỗi xa bời bời” khi mặt vừa đối mặt gã họ Kim búng ra sữa chưa quá một bận ? Cũng nép vào, cũng e lệ nhưng Thúy Vân nào có dấu hiệu gì liên quan đến hội chứng suy tim cấp tính. Chỉ với Kiều “anh hoa phát tiết” khả dĩ cho phép chúng ta hoài nghi một hiện tượng ức chế, tín hiệu báo trước sẽ có một sự xé rào tìm đến với Kim giữa đêm thanh vắng ? 

Nhà lan thanh vắng một mình,
Ngẫm  cơ  hội  ngộ  đã  dành  hôm  nay.
Thời  trân  thức  thức  sẵn  bày
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường…

Ôi, chẳng phải vô cớ mà Nguyễn Công Trứ - một tay cự phách trong lãnh vực liễu chán hoa chê sinh ra dỗi hờn và tiếc hụt, do đã không được xí phần nên mới buông lời cay độc Kiều… “cho đáng kiếp tà dâm” ?
Phải chi thay cho cậu ấm họ Kim hoặc tay hảo hán râu hùm dại gái họ Từ, người đón Kiều về dinh sau này là tướng công “ngũ thập niên tiền nhị thập tam” Uy Viễn nhỉ ?

Hà  như  Uy  viễn  tướng  quân  thú,
Túy ủng hồng nhi thượng pháp môn (2).

Với lão tình nhân xem trời bằng vung vào mọi thời điểm, Kiều hẳn sẽ thấy đời dễ chịu và ung dung. Sẽ tha hồ mà ngắm cảnh dạo chơi, kể cả “khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa” trên mọi địa thế .
Với việc đánh mất chiếc trâm cài cũng là một điều xác tín cho sự đáng ngờ nói trên : Kiều vô tình hay lả lơi theo chiến thuật ? Dĩ nhiên sự thể mỗi khi đã xẩy ra, Kim Trọng dẫu chậm hiểu cũng tương kế tựu kế nhặt về rồi mang trả, nhằm thực hiện ý đồ… trước ngoài sân sau lần vô bếp !
Khôn em dễ bán dại này, xem ra Kim vẫn chưa đến nỗi là một gã tay mơ. Nói cách khác, chẳng qua Kim là một tác phẩm điêu khắc chưa kịp nên dạng nên hình của người nghệ sĩ nhiều lận đận Tiên Điền đấy thôi. Ngọn bút lông của Nguyễn Du hẳn quá đà mà vung vãi, chấm phá chứ suy cho cùng người quốc sắc khéo làm mặt thẹn lấp ló sau rèm là Kiều, kẻ thiên tài cũng chính Kiều. Anh họ Kim tự thân chẳng nên tích sự, khó giữ nỗi Kiều ngày ấy - nói chi mười lăm năm sau tái ngộ ván trót đóng thuyền. Kiều bấy giờ nghiễm nhiên là bà chị vợ, chẳng rõ Kim ta toan tính “vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa” chăng ?

Một lời đã trót thâm giao,
Dưới dày có đất, trên cao có trời.
Dẫu rằng vật đổi sao dời,
Tử sinh  cũng giữ  lấy lời  tử sinh.
Duyên kia có phụ chi tình,
Mà toan sẻ gánh, chia tình làm đôi ?

Chẳng nhẽ mọi sự kết thúc có hậu cho riêng cậu ta, một con người dở hơi đến thế. Lẽ ra Kim phải giữ ýgiữ tứ, chớ có gợi nhắc để Kiều phải tủi thân nhớ về một đoạn đời không đáng nhớ :

Thiếp  từ  ngộ biến  đến  giờ,
Ong  qua  bướm  lại  đã  thừa  xấu  xa.
Bấy  chầy  gió  táp  mưa  sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.
Còn  chi  là  cái  hồng  nhan,
Đã  xong  thân  thế, còn  toan  nỗi  nào ?

Ngầm cảnh giác Kim về sự hiện diện đâu đó của cô em mình, Kiều sau những ngắn dài thở than đành… phán :

Khéo là giở nhuốc bày trò,
Còn  tình  đâu  nữa  mà  thù  đấy  thôi.
Người yêu, ta xấu với người,
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.
Cửa  nhà  dù  tính  về  sau
Thì  đà  em  đó , lọ  cầu  chị   đây …
Chữ  trinh  còn một  chút  này
Chẳng cầm cho vững  lại  dày cho tan ?

Kim buộc phải ậm ự nghi binh hoặc giả lả trì hoãn chiến, nào… “một lời quyết hẳn muôn phần” nào… “lọ là chăn gối mới ra sắt cầm” ! Thực tình cậu em rể giờ đây khó để được Kiều tin, trừ phi bà chị vợ quỷ quái… giả vờ tin. Nhớ thuở từ Liêu Dương quay về chốn cũ Lâm tri, Kim vội vã chạy sang vườn Thúy tìm Kiều thì sẽ biết ngay :

…Hỏi ông,  ông mắc  tụng đình
Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha.
…Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi
Tỉnh  ra  lại  khóc, khóc  rồi  lại  mê.

Kim vật mình vật mẩy thiếu đường hấp hối tới nơi, rốt cuộc tỉnh dậy cưới ngay Thúy Vân làm vợ. Bấy nhiêu nói lên tính ăn chắc mặc bền, vui đâu chốc đó của Kim và trùng hợp thay, Thúy Kiều cũng hời hợt không kém. Mới ngày nào giọt ngắn giọt dài, bàn giao quyền thừa kế tình nhân cho em gái :

Cậy  em,  em  có  chịu  lời
Ngồi  lên  cho  chị  lạy  rồi  sẽ  thưa.
…Dù  em  nên  vợ  nên  chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
…Mai  sau  dù  có  bao  giờ
Đốt  lò hương  ấy, so  tơ  phím  này,
Trông  ra  ngọn  cỏ  lá  cây,
Thấy  hiu  hiu  gió  thì  hay  chị  về.
Nay vừa vui sum họp Kim lẫn Kiều đã ít nhiều cử chỉ khó coi, hóa ra bàn giao là để nhờ em… giữ đấy ? Ai dám chắc sẽ không tránh khỏi sự dây dưa trong nhăm ba ngày tới, ai dám tin Kiều huống chi tin Kim Trọng ? Dấu ấn duyên xưa và chuỗi tháng ngày lênh đênh, tình cảm thiếu trước hụt sau : liệu lấy gì cầm chắc cả hai sẽ giữ trọn cái chất tri kỷ ? Hay sớm muộn cũng xé nát tâm can cô em, gương trăng vốn đã đầy đặn nay càng đầy đặn hơn bởi đà… mắn con :

Thoắt  thôi  tay lại  cầm tay,
Càng  yêu  vì  nết  càng  say  vì  tình.
Thêm nến giá, nối hương bình
Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan.
Tình  xưa  lai  láng  khôn  hàn,
Thong  dong  lại  hỏi  ngón  đàn  ngày  xưa.

Có thể đấy là thao tác giả chứ bảo “yêu” e thiếu sức thuyết phục. Một qúy ông ởm ờ như Kim chắc gì được vợ yêu, sao khiến nỗi bà chị vợ nay đã từng trải thực hư hư thực… yêu. Họa chăng, yêu như làm của… để dành : “miếng khi đói, gói khi no” ?
Nhưng thiên tiểu thuyết bằng thơ vội vã khép lại và bóng dáng Kiều đâu chẳng thấy, chỉ nghe lời kết như một tiếng vọng đầy triết lý của tác giả :

Thiện  căn  ở  tại  lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài !

Chúng ta thôi cũng chớ điều tra sự việc hậu đoạn trường làm chi cho thêm phũ phàng và tội nghiệp Thúy Vân, một tính cách vốn luôn khác xa chị mình. Hãy cùng trở lại với Kiều, sau cuôc “nữ đáo nam phòng” đầy chất ngẫu hứng và bao lâu sau gia đình gặp nạn phải bán mình chuộc cha, khởi đầu “bước một” thăng trầm theo con thuyền bạc mệnh.
Thúy Kiều rơi vào tay một thương lái giả dạng hay là khách chơi tỉnh lẻ ? Với tác phong “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” ngay từ buổi đầu, Mã Giám Sinh đã khiến Kiều chưng hửng. Kiều đâm ra hối tiếc ngày ấy trót đã… chối từ Kim, sự hối tiếc cũng rất ư  là… Kiều :

Phẩm  tiên  rơi  đến  tay  hèn,
Hoài công  nắng giữ , mưa gìn với ai.
Biết  thân  đến  bước  lạc  loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.

Rốt lại vẫn một thực tế Thúy Kiều muôn thuở vẫn là Thúy Kiều, luôn có sự đánh đồng giữa tình yêu và tính lãng đãng. Cũng dễ hiểu thôi bởi Kiều sinh ra đâu có số chọn chồng, thậm chí còn không được… chọn mối. Kiều luôn là kẻ bị chọn mua hay chịu xuôi xuôi cho người mua chọn :

Rủi   may   âu   cũng   sự   đời ,
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên !
Xót nàng chút phận thuyền quyên,
Cành  hoa  đem  bán  vào  thuyền  lái  buôn.

Mà họ Mã đã chịu mua tất sẽ tính đường bán, dễ gì một con buôn là hắn lại bỏ nhỡ cơ hội “nước trước bẻ hoa” như một cách lấy lãi trước khi giao hàng và nhận vốn :

Tiếc  thay  một  đóa  trà  mi,
Con  ong   đã  tỏ   đường  đi   lối  về.
Một  cơn  mưa  gió  nặng  nề,
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương.

Rồi… đuốc hoa để đó, rồi… mặc nàng nằm trơ : tay nghề của Kiều bấy giờ ắt còn quá non ? Chỉ một lần “căm nỗi khách” ấy, Kiều chẳng những không yêu - vả lại, phường mạt cưa mướp đắng như Mã cũng chỉ cần tiền chứ đâu cần yêu hay cần thứ tình yêu của Kiều. Giả sử không bị mưu bán vào lầu xanh “học đạo” đưa người cửa trước rước người cửa sau, Kiều lại được Mã qui hoạch vào một vị trí thê thiếp có lẽ Kiều không đến phải :

Thôi  thì  thôi, có  tiếc  gì ...
… Một dao oan nghiệt, dứt dây phong trần !

Nhưng “kiếp này nợ trả chưa xong” nên Kiều được cứu sống và vào lầu Ngưng Bích theo lời thần mộng, nhằm tránh chi thêm “nợ chồng kiếp sau”. Tại đây, Kiều lại trở về  với tập tính cũ cùng những gã trai tơ :

Một  chàng vừa trạc thanh xuân,
Hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng.

Không quen vẫn phải quen cái nghiệp nước chảy hoa trôi, Kiều tiếp tục lả lơi cùng khách tình mới :

Nghĩ rằng cũng mạch thư hương
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.

Cũng bốc và kịch như bao tay phong tình chuyên nghiệp khác, Sở Khanh đánh hơi được cảnh “hoa sao hoa khéo đọa đày bấy hoa” bèn nhập ngay vai diễn. Nhưng trái hẳn tinh thần ngọt ngào mã thượng của nhân vật trong truyện thơ của Nguyễn đình Chiểu, trên đường gặp cảnh Nguyệt Nga lâm nạn và cứu thoát :

                                               Khoan khoan đứng đó chớ ra
                                         Nàng  là  phận  gái,  ta là phận  trai (3)
Sở Khanh vẫn diễn rất đạt, có điều gã không tôn trọng nguyên tắc “nam nữ thọ thọ bất thân” mà cứ việc xấn vào :

Tức  gan  riêng  giận  trời  già,
Ra  tay  tháo  cũi  sổ  lồng  như  chơi.
Nàng  đà  biết  đến  ta  chăng,
Bể  trầm  luân  lấp  cho  bằng  mới  thôi.

do Kiều gợi ý :

Đánh liều nhắn một hai lời,
Nhờ tay tế độ vớt người  trầm luân.
Dám  nhờ  cốt  nhục  tử  sinh,
Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau.

Kế hoạch đào tẩu chưa đến đâu, bóng đêm đã toa rập cùng Sở Khanh lẫn Thúy Kiều :

Chim hôm thoi thóp về rừng,
Đóa trà  mi đã  ngậm trăng  nửa vành.
Tường đông lay động bóng cành,
Đẩy song  đã thấy  Sở Khanh  lẻn vào.

Trong đêm giả vờ dẫn Kiều bỏ trốn, y đã nhanh chân… quất ngựa. Thúy Kiều một lần nữa không thoát khỏi vòng kim cô, trở lại Ngưng Bích học nốt “những nghề nghiệp hay” để từ đấy :
-Biết  bao  bướm  lả  ong  lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
-Dập  dìu  lá  gió  cành  chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.
-Khi tỉnh rượu , lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi  sao  phong  gấm  rủ  là ?
Giờ  sao  tan  tác  như  hoa  giữa đường ?

Kiều lại gặp trong đám khách du một mẫu người đồng điệu, Thúc Sinh. Thúc đến Lâm tri để mở cửa hàøng nhưng kinh doanh là chuyện nhỏ, ăn chơi mới là nghề chính của chàng. Và do cái sự vung tay quá trán “trăm nghìn đổ một trận cười” nên Kiều và Thúc như rồng mây gặp hội :

Hải  đường  mơn  mởn  cành  tơ
Ngày xuân càng gió, càng mưa, càng nồng.
Lạ  gì  thanh  khí  lẽ  hằng,
Một  dây  một  bước  ai  giằng  cho ra.
Sớm  đào  tối  mận  lân  la,
Trước  còn  trăng  gió, sau  ra  đá  vàng.
Khi  gió  gác, khi  trăng  sân,
Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ.
Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn.
Miệt mài trong cuộc truy hoan,
Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.

Tính cách phong lưu có gốc có gác của Thúc, đánh thức thứ bản năng gốc rất ư phụ nữ ở Kiều. Khác chi bao thân phận trót nhỡ khác, Kiều cũng có lúc chợt mơ một sự yên bề. Song chợt nghĩ đến cảnh ngộ của mình, Kiều tình thực trút hết :

Thiếp  như  hoa  đã  lìa cành,
Chàng như  con bướm lượn vành mà chơi.
Chúa  xuân  đành  đã  có  nơi,
Ngắn  ngày  thôi  chớ  dài  lời  làm  chi.
Rồi  ra  nhạt  phấn  phai  hương,
Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng ?

Kiều dùng lời lẽ thăm dò, kích động khéo “máu liều” của Thúc Sinh trước khi chấp nhận… làm lẻ !

Sá  chi  liễu  ngõ  hoa  tường,
Lầu xanh  lại bỏ  ra phường  lầu xanh.
Lại  càng  dơ  dáng  dại  hình,
Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng.
Thương sao cho vẹn thì thương,
Tính  sao  cho  trọn  mọi  đường  thì  vâng.

Tự thâm tâm hẳn Thúc lẫn Kiều, chỉ do hết đường lui mới liều và Thúc Sinh  chịu… liều thật :
Mượn điều trúc viện thừa lương,
Rước  về  hãy  tạm  giấu  nàng  một  nơi.

 Kể từ độ bán mình, đoạn đời Kiều hạnh phúc và cám cảnh nhất có lẽ là đây do cảm giác tâm đầu ý hiệp bên Thúc, dẫu ít nhiều mong manh :

Công  tư  đôi  lẽ  đều  xong,
Gót  tiên  phút  đã thoát  vòng  trần  ai.
Một  nhà  sum  họp  trúc  mai,
Càng  sâu  nghĩa  bể  càng  dài  tình sông.
Hương càng đượm lửa càng nồng,
Càng  xôi  vẻ  ngọc  càng  lồng  màu  sen.

Khổ thay, dẫu trăng hoa nhưng Thúc vẫn luôn canh cánh nỗi niềm trở lại mái nhà xưa. Thế gian ai hiểu vợ hơn chồng, chỉ cần Hoạn Thư xuất hiện thì đâu sẽ vào đấy. Hoạn Thư ghen nào thua gì Liễu thị (4). Khác chăng là Hoạn Thư không như “sư tử hống” mà ghen… bài bản, tình tiết và thâm trầm :

                                               Bề ngoài thơn thớt nói cười
                                   Mà trong nham hiểm giết người không dao.

Trách hay oán là chuyện của Kiều, trước sau Hoạn Thư vẫn như một Kiều không được Hoạn Thư hân hoan rước về, sớm muộn Kiều cũng phải ra đi trong sự dày vò của Thúc vừa “được phép” hồi gia :

                                               Phận bèo bao quản nước sa,
                                     Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.

Bạc mệnh hay không bạc mệnh cũng do Kiều, khó thể đổi tội cho người… “đàn bà dễ có mấy tay” này được ? Kiều chẳng đã khéo phất một cách ra hồn ra vía, khi dựa vào Từ Hải để ân đền oán trả với những kẻ xưa đã hại mình, vượt xa từng trận đòn thù của nàng tiểu thư  nhà ghen họ Hoạn đấy sao ?

                                                Máu rơi thịt nát tan tành,
                                       Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời !

Nhưng suy cho cùng sau cái phút giận quá mất khôn, Từ phu nhân cũng thấm từng lý lẽ “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai” của Hoạn Thư. Kiều đã “phóng sinh” cho kẻ tình thù :

                                               “Đã  lòng  tri  quá  thì  nên”
                                   Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.

Liệu đấy có là một “cách yêu” của Kiều riêng đối với Thúc lần cuối, khi liếc nhìn cố nhân bấy giờ “mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run” bởi Thúc là kẻ trước tiên được Kiều … “cho gươm mời đến” ?
                                               Nàng rằng – “nghĩa trọn nghìn non”
                                           Lâm tri người cũ, chàng còn nhớ không ?
                                               Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
                                           Tại  ai,  há  dám  phụ  lòng  cố  nhân.

Trong toàn bộ 3254 câu của thiên truyện thơ Kiều, có lẽ tính lãng mạn cảm động và đáng yêu nhất là để dành riêng cho Thúc cùng Kiều, được thể hiện chính  trong tình đoạn đầy kịch tính này :
                                               Thúc sinh trông mặt bấy giờ,
                                          Mồ hôi  chàng đã  như  mưa  ướt dầm
                                               Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
                                          Sợ  thay,  mà  lại  mừng  thầm  cho  ai.

Phải chi là “hờn” thay cho… “sợ” (sợ thay) vì trăm phần Thúc vẫn nặng tình với Kiều đấy chứ. Ai cấm Thúc không ngầm giận Kiều, khi ngước nhìn lên cái cảnh Từ Hải đang ung dung bên Kiều :
Trướng hùm mở giữa trung quân
Từ  công  sánh  với  phu  nhân  cùng  ngồi.

Kể ra Từ Hải cũng đáng mặt… giang hồ, nếu là Trương Phi chắc trăm phần không biết chơi đẹp như Từ, mạng Thúc bấy giờ tất khó được bảo toàn. Kiều yêu và đền đáp tình yêu kiểu này quả thật múa rìu qua mắt thợ và không ổn chút nào. Khác chi “chuông treo chỉ mành” con tim của Thúc cùng một lúc trước hai con tim Hoạn Thư  và Từ Hải !
Nhưng phải trở lại thời điểm Kiều thoát khỏi tay Hoạn Thư, vào gởi thân ở Chiêu ẩn am. Chẳng bao lâu Kiều lại mắc mưu Bạc bà và “má hồng đến quá nửa thì chưa thôi” Kiều bị ép duyên cùng Bạc Hạnh để bị đem bán tiếp vào lầu xanh :

                                               Biết thân tránh chẳng khỏi trời
                                        Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh

Có thế Kiều mới gặp hảo hớn Từ Hải “vai năm tấc rộng thân mười thước cao” nhưng ai bảo Từ Hải trí dũng ? Lãnh vực côn quyền thì có thể, chứ lược thao ắt phải xét lại. Từ chẳng qua là tay thảo khấu, một dạng thời thế tạo vì mới hôm nao mượn tiếng sông hồ để chia tay Kiều :

Nửa năm hương lửa đang nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông  vời  trời  bể  mênh  mang,
Thanh gươm, yên ngựa lên đường thẳng giong.

Kể cả khi Kiều phận gái chữ tòng xin theo, chàng ta còn quyết lời dứt áo ra đi… bằng cách hẹn khéo :

… Bao giờ  mười vạn  tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.
Làm cho  rõ mặt  phi thường,
Bấy  giờ  ta  sẽ  rước  nàng  nghi  gia.
Bằng nay  bốn bể  không nhà,
Theo  càng  thêm  bận, biết  là đi  đâu ?
Đành  lòng  chờ  đó  ít  lâu,
Chầy chăng  là một  năm sau,  vội gì !

Vậy mà vừa “nghe lời nàng nói” theo kế dụ hàng của Hồ Tôn Hiến, phút chốc lại quyết định một cách xốc nổi điều gã vốn đã hình dung :
Bó  thân  về  với  triều  đình,
Vào  luồn  ra  cúi  công  hầu  mà  chi !

Rồi.. riu ríu “thành hạ yêu minh” để cho bao nhiêu thuộc hạ “ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng” ! Đâu nữa, giọng tự xưng đầy tính cường điệu của Từ Hải bấy lâu :

Từ rằng : Quốc  sĩ  xưa  nay,
Chọn người tri kỷ một ngày được không ?
Anh hùng  tiếng đã  gọi rằng :
Giữa đường  dẫu thấy  bất bằng  mà tha…

Nên dẫu có tự phong anh hùng hay quốc sĩ, nhưng ngẫu hứng không đúng lúc đúng cảnh thì Từ có vong mạng cũng là logic.
Đáng ngạc nhiên chăng là cái nết, cái hạnh của Kiều sau khi chồng vừa chết đứng. Nếu vì thúc thủ phải thất thân với Hồ Tôn Hiến vẫn có thể chấp nhận được, chứ cái cách Kiều chịu đánh đàn và đánh “rất hay” cho Tôn Hiến nghe, quả là điều không thể biện minh cho cốt cách một người vợ. Năm xưa trong vị trí một a hoàn (mang tên mới là Hoa) nhà họ Thúc, phải vâng lời Hoạn Thư ra trình diện Thúc Sinh và đánh đàn cho họ nghe, Kiều đã đánh “rất hay” nhưng đấy là ngón đàn “hay” của một kẻ… yêu tình (yêu…  Thúc Sinh) :

                                               Nàng đà choáng váng tê mê,
                                       Vâng lời  ra trước  bình the  vặn đàn.
                                               Bốn dây như khóc như than,
                                       Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
                                               Cùng trong một tiếng tơ đồng
                                        Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
                                               Giọt châu lã chã khôn cầm,
                                         Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt tương.

Riêng với Từ Hải, chừng như Kiều tự thâm tâm không có được thứ tình ấy chăng, sao có sự phân tích mạch lạc ân cần khi Hiến hỏi :

Hỏi rằng - …Này khúc ở đâu ?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay !

Phần lão Tôn Hiến đại thần, việc dụ hàng một tướng giặc qua trung gian người vợ (Kiều) rồi hạ thủ, đành rằng không xứng mặt trượng phu vẫn là chuyện chưa có gì đáng trách. Nhưng tì thiếp và gái đẹp đâu mà Hiến trơ mặt vớt chút tàn hương ở Kiều, đã thế còn gạ gẫm muốn nối lại “dây đàn” (nối duyên) cùng Kiều nhỉ ?

                                               Dạy rằng – “Hương lửa ba sinh
                                        Dây  loan  xin  nối  cầm  lành  cho  ai !”

Tôn Hiến trong hành động này mới thực sự vô sĩ, lẽ ra hắn và Kiều phải chết thay cho Từ Hải thì đúng hơn :

Giết chồng mà lại lấy chồng,
Mặt nào  mà lại  đứng trong  cõi đời ?
Sau sự đã rồi, Hiến chợt “nghĩ mình phương diện quốc gia” mới vội vã gán Kiều cho một thổ quan. Mỉa mai thay, gã thổ quan này mới là người chồng tương đối danh chính ngôn thuận của Kiều, nếu Kiều không vì thế mà gieo mình xuống sông Tiền Đường :

Lệnh  quan  ai  dám  cãi  lời,
Eùp tình mới gán cho người thổ quan.
Ông  tơ  thật  nhẽ  đa  đoan,
Xe tơ  sao khéo  vơ quàng  vơ xiên ?

Tóm lại, ngoại trừ Thúc tương đối khắng khít - chẳng một anh nào trong số những đấng tu mi còn lại là người để Kiều yêu hay thực sự yêu Kiều. Vả chăng, Kiều cũng chỉ đáng được chừng ấy chứ không thể khiếu kiện hoặc yêu sách gì hơn. Kiều chưa thực sự biết yêu, đúng hơn là chưa kịp yêu vì nợ người nợ tình bỗng đâu dồn dập. Trong mọi tình huống cô ả chỉ cân phân đôi chút rồi… phản ứng tự vô thức, Kiều luôn đẩy phần thiệt về phía tình nhân.
May ra chỉ có Nguyễn Du yêu Thúy Kiều hay đúng hơn mượn Thúy Kiều, Nguyễn Du tâm sự… Nguyễn  Du xót thương… Nguyễn Du tự ví và cay đắng cho riêng mình, trước hay sau ngày tiên sinh là một ông quan buồn bên dòng Hương giang “kim cổ hứa đa sầu” (5).. Đơn giản là Kiều hay Nguyễn Du, dễ gì ai thoát khỏi thân phận một con người mà chỉ như… “mùa xuân thấm thoát kia cùng trôi theo dòng nước, biết… về đâu” (6) !


Chú thích:
(1) Theo nguyên tác Kim Vân Kiều truyện bằng chữ Hán của Thanh Tâm Tài Nhân thì nhân vật Vương Thúy Kiều là một kỹ nữ sống vào khoảng 1522 đến 1566 triều Gia Tĩnh tức gần cuối đời nhà Minh (Trung Quốc). Nguyên tác này không được phổ biến cho lắm như khi được Nguyễn Du diễn Nôm bằng thể thơ lục bát ơ Việt Nam vào đầu thế kỷ 19 dưới đề tựa Đoạn Trường Tân Thanh..
(2)  thơ Phan Bội Châu ca ngợi Nguyễn Công Trứ :
Sao được như Uy Viễn tướng quân
Lúc say mang cả ả đào lên cửa Phật
(3)  thơ trích từ truyên thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
(4) Một phụ nữ đời Tống (Trung Quốc) nổi tiếng ghen có tên Liễu thị, mỗi lần thế nàng gầm thét tựa sư tử rống, khiến ai ai cũng khiếp sợ. Bạn của chồng Liễu thị là Tô Thức thấy vậy, đã làm bài thơ sau :
                                   Hốt văn Hà Đông sư tử hống
                                    Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
(Chợt nghe sư tử Hà Đông rống
            Gậy chống rời tay, hồn vía lên mây)
(5)       thơ Nguyễn Du :
Hương giang nhất phiến nguyệt
                                    Kim cổ hứa đa sầu
                                   (Sông Hương một mảnh trăng soi
                                    Xưa nay gợi nhắc biết bao sầu)
(6) thơ Nguyễn Du :
                        Xuân tòng giang thượng lai hà xứ         !
                        (Xuân theo dòng nước về đâu nhỉ !)
                                         

    NGUYỄN VĂN SA.
(Phan X Hung suu tap)