Dương Quảng Hàm
Một tác phẩm đã chiếm một địa vị quan trọng trong quốc văn là quyển Kim Vân Kiều tân truyện (....), nhất danh là Đoạn trường tân thanh (....) (1) , mà tác giả là Nguyễn Du (2) .
Nguồn gốc truyện Kiều (3)
Tác giả, trong đoạn mở bài (câu 7-8), đã viết:
Kiểu thơm lần giở trước đèn,
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
Vậy tác giả đã được xem một cuốn sách của Tàu rồi nhân đấy mà viết ra truyện Kiều. Nhưng bốn chữ "phong tình cổ lục (....)" chỉ có nghĩa là một câu chuyện phong tình xưa, tức là một cái phổ thông danh từ, chứ không phải là nhan riêng một cuốn sách. Vậy sách ấy chính nhan là gì và do ai làm ra?
Lâu nay, ở nước ta, vẫn có một bản truyện Kiều chữ Hán chép tay (4) nhan là Kim Vân Kiều truyện mà các học giả vẫn cho là một cuốn tiểu thuyết Tàu do đấy Nguyễn Du đã soạn ra cuốn truyện nôm.
Gần đây, chúng tôi lại được xem một cuốn sách nội dung giống như cuốn trên này, nhưng là một cuốn sách in (mộc bản) ở bên Tàu (5) . Sách gồm có 4 quyển và chia làm 20 hối. Ở đầu mỗi quyển, có đề: (....) Quán hoa đường bình luận Kim Vân Kiều truyện, quyển chi ... (6) - Thánh thán ngoại thư - Thanh tâm tài nhân (7) biên thứ.
Khi ta so sánh nguyên văn quyển Kim Vân Kiều truyện này với nguyên văn truyện Kiều của Nguyễn Du thì ta thấy rằng đại cương tình tiết hai quyển giống nhau: các việc chính, các vai nói đến trong truyện Kiều đều có cả trong cuốn tiểu thuyết Tàu.
Sự so sánh ấy lại tỏ rõ rằng Nguyễn Du không phải chỉ dịch văn xuôi của Tàu ra văn vần của ta mà thôi. Tác phẩm của ông thật có phần sáng tạo đặc sắc: ông sắp đặt nhiều việc một cách khác để cho hợp lý hơn hoặc để tránh sự trùng điệp; ông thay đổi nhiều điều tiểu tiết để tả cảnh ngộ hoặc tình hình các vai trong truyện một cách rõ rệt hơn; ông lại bỏ đi nhiều chỗ thô tục (như đoạn kể rõ "vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề") và nhiều đoạn rườm, thừa, không bổ ích cho sự kết cấu câu chuyện.
Vậy nguồn gốc truyện Kiều của Nguyễn Du là quyển tiểu thuyết Tàu nhan là Kim Vân Kiều truyện (....)do một tác giả hiệu là Thanh tâm tài nhân (....) soạn ra về cuối thế kỷ XVI hoặc đầu thế kỷ thứ XVII (8) và do một nhà phê bình có tiếng là Kim Thánh Thán (9) bình luận (10) .
Lược truyện
Truyện Kiều gồm có 3254 câu, trừ đoạn mở bài và đoạn kết, có thể chia làm sáu hồi:
Đoạn mở bài (câu 1-38): Tác giả đem cái thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) nêu lên làm luận đề cuốn truyện. Rồi tác giả nói gia thế và tả tài sắc hai chị em Thúy Kiều.
I.- Thúy Kiều và Kim Trọng đính ước với nhau (câu 39-528).
- Thúy Kiều cùng hai em là Thúy Vân và Vương Quan, nhân đi chơi thanh minh, gặp mả Đạm Tiên là một người kỹ nữ xưa có tài sắc mà số mệnh không ra gì; lúc sắp về, lại gặp Kim Trọng, hai bên bắt đầu yêu nhau. Kiều về nhà, nghĩ đến thân thế Đạm Tiên mà lo cho hậu vận của mình; lại nhớ đến Kim Trọng, không biết duyên phận sẽ ra thế nào. Kim Trọng từ khi biết Kiều cũng đem lòng tưởng nhớ, rồi tìm đến ở cạnh nhà Kiều, nhân thế mà hai bên gặp nhau và thề nguyền gắn bó với nhau.
II.- Vương ông mắc oan. Thúy Kiều bán mình (câu 529-864).
- Sau khi Kim Trọng từ biệt Kiều về hộ tang chú thì bỗng Vương ông bị thằng bán tơ vu oan phải bắt. Kiều muốn có tiền để chuộc tội cha, phải bán mình cho Mã Giám sinh và theo về Lâm tri.
III.- Kiều ở thanh lâu (câu 865-1274).
- Mã Giám sinh nói dối là mua Kiều làm thiếp; thực ra, hắn chỉ là tay sai của Tú bà, một mụ chủ một ngôi hàng thanh lâu. Khi đến Lâm tri, Kiều biết mình bị lừa, toan bề tự vận. Tú bà mới dỗ ngọt cho Kiều ra ở lầu Ngưng bích nghỉ ngơi, hứa sẽ tìm nơi xứng đáng gả cho. Tú bà bèn lập mưu sai Sở Khanh làm ra mặt nghĩa hiệp rủ Kiều đi trốn. Đến nửa đường, Sở Khanh bỏ Kiều, Kiều bị Tú bà bắt về, ép phải ra tiếp khách.
IV. Kiều vào tay Hoạn thư (câu 1275-1992).
- Kiều ở thanh lâu ba năm. Sau gặp một người làng chơi là Thúc sinh lấy Kiều làm thiếp. Nhưng vợ cả Thúc sinh là Hoạn thư được tin, nổi ghen, sai người, nhân khi Thúc sinh đi vắng, đến bắt Thúy Kiều đem về nhà hành hạ khổ sở.
V. Kiều lấy Từ Hải (câu 1993-2736).
- Kiều bỏ nhà Hoạn thư trốn đi đến ở chùa bà vãi Giác Duyên, được ít lâu bà cho Kiều sang ở nhà một người đàn bà thường đến lễ chùa là Bạc bà. Không ngờ Bạc bà cũng một phường với Tú bà, giả làm lễ cưới Kiều cho cháu mình là Bạc Hạnh để đem bán Kiều cho một hàng thanh lâu ở châu Thai. Thế là Kiều lại phải vào thanh lâu lần thứ hai. Được ít lâu, Kiều gặp một người tướng giặc là Từ Hải lấy làm vợ. Kiều nhân dịp báo ơn xưa, trả oán cũ. Nhưng không bao lâu Từ Hải mắc lừa bị giết chết. Kiều bèn đâm đầu xuống sông Tiền đường, nhưng nhờ có bà vãi Giác Duyên vớt lên đem đến ở trong am của bà.
VI. Kim, Kiều tái hợp (câu 2737-3240).
- Kim Trọng, sau khi về hộ tang chú, trở lại tìm Kiều; nghe tin Kiều phải bán mình, mới nghe lời Kiều dặn lúc ra đi, lấy Thúy Vân. Sau, cùng với Vương Quan đi thi đỗ, được bổ làm quan, mới dò la tin tức Kiều, rồi gặp bà vãi Giác Duyên đưa đến chỗ Kiều ở. Hai bên được đoàn tụ cùng nhau.
Đoạn kết (câu 3241-3254): Tác giả nhắc lại thuyết "tài mệnh tương đố" mà khuyên ta nên giữ lấy "thiện tâm".
Tâm sự tác giả trong truyện Kiều
Truyện Kiều có thể coi là một câu truyện tâm sự của Nguyễn Du tiên sinh. Cái tâm sự ấy là cái tâm sự của một người bầy tôi trung mà vì cảnh ngộ không thể giữ trọn được chữ trung với cựu chủ. Tác giả vốn tự coi mình như một cựu thần của nhà Lê, mà gặp lúc quốc biến không thể trọn chữ trung với Lê hoàng, lại phải ra thờ nhà Nguyễn. Tâm sự thật không khác gì Thúy Kiều đã đính ước với Kim Trọng mà vì gia biến phải bán mình cho người khác, không giữ được chữ trinh với tình quân. Bởi vậy tác giả mới mượn truyện nàng Kiều để ký thác tâm sự của mình.
Triết lý truyện Kiều
Cái triết lý trong truyện là mượn ở Phật giáo. Ngay đoạn mở đầu, tác giả nhận rằng ở trên đời này tài và mệnh thường ghét nhau (tài mệnh tương đố (....)). Cả thân thế nàng Kiều là một cái tang chứng về điều ấy: Kiều là một người có tài có sắc mà gặp bao nỗi long đong lưu lạc, thật là số mệnh hẩm hiu. Nhưng tại sao Thúy Kiều không làm gì nên tội mà lại phải chịu những nỗi khổ ấy? Muốn giải điều ấy, tác giả mượn cái thuyết nhân quả của đạo Phật. Cái nghiệp ta chịu kiếp này là cái kết quả của công việc ta về kiếp trước cũng như công việc ta kiếp này sẽ là cái nguyên nhân của nghiệp ta về kiếp sau. Thế thì Thúy Kiều phải chịu những nỗi khổ sở là để trả cái nợ, rửa cái tội kiếp trước.
Bởi vậy muốn cho cái nghiệp của mình về kiếp sau được nhẹ nhàng, thì phải giữ mối thiện tâm, phải làm điều thiện, Thúy Kiều tuy gặp bao tai nạn oan khổ mà vẫn giữ được lòng thiện (11) , biết bán mình để trọn đạo hiếu, cứu muôn người để làm điều nhân, nên sau một hồi mười lăm năm luân lạc phong trần, lại được hưởng hạnh phúc về hậu vận (đoạn tái hợp). Nên tác giả kết lại khuyên người ta nên giữ lấy chữ tâm vì cái thiện tâm có thể gỡ được cái tội nghiệp của mình về kiếp trước và gây nên cái quả phúc cho mình về sau.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
(truyện Kiều, câu 3249-3252)
Luân lý truyện Kiều
Về phương diện văn chương thì ai cũng công nhận truyện Kiều là hay. Nhưng về đường luân lý, hồi xưa các cụ theo lễ tục cổ có ý cho là một quyển sách không nên cho đàn bà con gái xem. Bởi vậy mới có câu:
"Đàn ông chớ kể Phan Trần (12)
"Đàn bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều".
Các cụ nói thế, có lẽ vì hai câu này:
1. Trong truyện Kiều, có một vài đoạn (như những đoạn tả đêm hôm động phòng của Mã Giám sinh với Thúy Kiều, tả cách ăn chơi đón tiếp ở nơi thanh lâu, tả lúc Thúy Kiều tắm) các cụ cho là khiêu khích dục tình.
2. Theo lễ tục xưa, con gái phải đợi mệnh của cha mẹ "đặt đâu ngồi đấy", để quyền cho cha mẹ kén chọn gả bán. Thế mà Thúy Kiều tự ý sang nhà Kim Trọng trước khi nói với cha mẹ: đó là một điều các cụ cho là trái với lễ tực cổ.
Nay ta thử xét xem hai cớ ấy có phương hại gì cho nền luân lý không?
Về cớ thứ nhất, tuy tác giả có tả các điều kể trên, nhưng bao giờ cũng dùng lời văn rất thanh nhã kín đáo, không hề tục tằn bộc lộ, chỉ khiến cho người đọc hiểu việc mà sinh lòng hoặc thương hại cho Thúy Kiều, hoặc ghê tởm vì cảnh tượng, chứ không phải lối văn khiêu khích dục tình. Như đoạn tả đêm hôm động phòng của Mã Giám sinh với Thúy Kiều, tác giả đã viết (câu 845-852):
Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về.
Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương.
Đêm xuân một giấc mơ màng,
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ.
Nỗi riêng tầm tã tuôn mưa,
Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình.
Ta đọc mấy câu văn kín đáo ấy, cũng như nàng Kiều, ta chỉ căm giận về thói vũ phu của một kẻ phàm tục mà thương xót cho thân phận một người con gái tuyết sạch giá trong chả may sa vào nơi bùn lầy dơ bẩn.
Đến đoạn tả Thúy Kiều tắm (câu 1309-1312):
Buồng the phải buổi thong dong,
Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Rành rành sẵn đúc một tòa thiên nhiên!
Tuy tả một việc rất thô, mà lời văn thanh nhã biết chừng nào! Đọc bốn câu ấy, ta có cái cảm giác về mỹ thuật khác nào như đứng trước một pho tượng khỏa thân của nhà điêu khắc tạo ra, chứ không hề có cái cảm giác về nhục dục.
Về cớ thứ nhì, cứ theo cái quan niệm mới về việc hôn nhân để cho trai gái có quyền lựa chọn miễn là trước khi lấy nhau phải được cha mẹ ưng thuận, thì việc làm của Thúy Kiều kể cũng không đáng trách, vì tuy nàng có thề thốt với Kim Trọng, nhưng vẫn giữ được sự trong sạch và vẫn đinh ninh dành quyền quyết định cho cha mẹ.
"Thôi nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong.
Dù khi lá thắm, chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha" (câu 332-334)
Đó là câu Thúy Kiều trả lời Kim Trọng khi chàng ngỏ lời yêu nàng. Kim Trọng cũng thuận theo ý ấy, chỉ xin Thúy Kiều ưng trước rồi sẽ nhờ mối lái hỏi theo lễ tục thường:
"Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành, rồi sẽ liệu bài mối manh." (câu 341-342)
Lại chính Thúy Kiều đã lấy lời lẽ đoan chính mà răn Kim Trọng khi thấy chàng có ý lả lơi:
"Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ Trinh làm đầu.
Ra tuồng trên Bộc, trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi?" (câu 505-508)
Xem thế thì biết Thúy Kiều tuy là một người giàu về tình ái nhưng không phải là con người đam mê tình dục, thực đúng như lời vãi Giác Duyên đã phán đoán trong câu (2682):
"Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm."
Phương chi khi Thúy Kiều, sau mười lăm năm lưu lạc, lại gặp tình nhân, nàng tự cho thân mình là xấu xa không còn xứng đáng với người yêu xưa, nên dù Kim Trọng nài ép cũng nhất địng xin đổi tình vợ chồng thành tình bè bạn để giữ lấy tấm lòng trong sạch, lấy chữ "trinh" trong tâm hồn thay cho chữ "trinh" về thân thể đã mất. Xem thế thì biết Thúy Kiều là một người đàn bà có tính tình cao thượng.
Vả chăng, xét cả thân thế nàng Kiều, dù có cho việc vượt ra ngoài vòng lễ tục ấy là một điều lỗi, thì việc nàng bán mình chuộc tội cho cha, hy sinh chữ tình để theo trọn chữ hiếu cũng đủ chuộc được điều lỗi của nàng. Vì sự hy sinh ấy mà trong mười lăm năm nàng phải chịu bao nỗi khổ sở, khổ vì cảnh ngộ đã đành, mà thứ nhất là khổ vì mối chung tình với Kim Trọng. Thế thì ta chỉ nên thương hại thay cho nàng, chứ không nên trách nàng đã yêu vụng dấu thầm chàng Kim.
Đó là xét riêng về hai điều kể trên. Nay nếu xét cả cuốn truyện thì ta nhận thấy ở trong ấy có nhiều bài học luân lý rất hay.
Về đường cá nhân luân lý, thì Thúy Kiều treo cho ta cái gương một người biết trọng phẩm giá:
"Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!" (câu 1026)
biết giữ thủy chung, vì tuy bị lưu ly, lúc ở thanh lâu, lúc lấy Thúc sinh, lúc lấy Từ Hải mà bao giờ nàng cũng nhớ đến Kim Trọng là người đã gắn bó với nàng từ trước.
Về đường xã hội luân lý, thì việc Chung ông giúp Kiều để cứu cha nàng là một việc nghĩa, việc Kiều khuyên Từ Hải ra hàng để cứu nhân dân, là một việc nhân. Tác giả lại khéo tả các cách hành động của những kẻ gian ác, cái thói tham nhũng của một bọn sai nha, khiến cho người đọc sinh lòng tức giận. Vậy một quyển sách gây nên nhiều thiện cảm như truyện Kiều chả phải là một tác phẩm có ảnh hưởng tốt về đường luân lý hay sao?
Văn chương truyện Kiều
Xưa nay ai cũng công nhận cái giá trị đặc biệt của truyện Kiều về đường văn chương. Cách kết cấu toàn thiên đã có phương pháp, cách sắp đặt trong mỗi hồi, mỗi đoạn lại phân minh. Các câu chuyện thật là thần tình khéo léo. Tả cảnh thì theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt khiến cho người đọc cảm thấy cái thi vị của mỗi cảnh và cái tâm hồn của mỗi vai ở trong cảnh ấy. Tả người thì vai nào rõ ra tính cách vai ấy, chỉ một vài nét mà như vẽ thành bức truyền thần của mỗi vai, khám phá được tâm lý của vai ấy, khiến cho nhiều vai (như Sở khanh, Tú bà) đã thành ra những nhân vật dùng làm mô dạng cho đời sau. Văn tả tình thì thật là thấm thía thiết tha làm cho người đọc phải cảm động. Cách dùng điển thì đích đáng, tự nhiên, khiến cho người học rộng thì thưởng thức được lối văn uẩn súc của tác giả mà người thường cũng hiểu được đại ý của câu văn. Bởi thế truyện Kiều mới thành quyển truyện phổ thông nhất ở nước ta: trên từ các bậc văn nhân thi sĩ, dưới đến các kẻ thường dân phụ nhụ, ai cũng thích đọc, thích ngâm và thuộc được ít nhiều. Rồi nhân đấy mà làm ra các bài vịnh Kiều, tập Kiều, án Kiều, thật là một cuốn sách rất có ảnh hưởng về đường văn học và phong tục ở nước ta vậy.
Dương Quảng Hàm
_________________________________________________________________________________
CHÚ THÍCH : Những chữ trong dấu ngoặc (....) là phần chữ Hán trong bài và trong phần chú thích sau đây, đã lược bỏ.
1. Đoạn trường tân thanh nghĩa là "tiếng mới đứt ruột". Tác giả đặt cái nhan ấy, chủ ý rằng quyển ấy kể một câu chuyện đau khổ theo một bản truyện cũ, nên gọi là tiếng mới.
2. Nguyễn Du (1765-1820): tự Tố như (..), hiệu Thanh hiên (..), biệt hiệu Hồng sơn liệp hộ (....), người xã Tiên điền, huyện Nghi xuân (Hà tĩnh). Tổ tiên nhà ông đời đời làm quan với nhà lê. Ông có khí tiết, không chịu ra làm quan với nhà Tây sơn. Năm Gia long nguyên niên (1802), ông được triệu ra làm quan, từ mãi không được. Năm thứ 12 (1813), thăng Cần chánh điện học sĩ sung làm chánh sứ sang cống bên Tàu. Đến khi về thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Minh mệnh nguyên niên (1820) lại có lệnh sang sứ Tàu, nhưng chưa đi thì ông mất.
3. Về vấn đề nguồn gốc truyện Kiều, chúng tôi đã khảo cứu kỹ lưỡng trong bài "Les sources du Kim Vân Kiều, célèbre poème de Nguyễn Du" đăng trong Bulletin général de l' Instruction publique, số Juin-Aout 1941; bài ấy có dịch ra quốc văn và nhan là "nguồn gốc truyện Kiều của cụ Nguyễn Du" đăng trong Tri tân tạp chí, số 4, 24-6-1941, tr.3 td.
4. Ở PQVĐHV. Thv., hiện có một bản truyện Kiều chữ Hán chép tay ấy (A 953), trên tờ mặt có đề: (....) - Sách gồm có 4 quyển và chia làm 20 hồi. Đầu quyển thứ nhất (tờ 5a) có đề (....). Đầu quyển sau, cũng đề y như thế, chỉ khác số quyển đổi đi. Bản Kiều chữ Hán này ông Hùng sơn NGUYỄN DUY NGUNG đã dịch ra quốc văn nhan là Kim Vân Kiều tiểu thuyết, Tân dân thư quán x.b. Hà nội, 1928.
5. Về quyển sách này, chúng tôi đã tả rõ trong bài "nguồn gốc quyển truyện Kiều của cụ Nguyễn Du" nói trên.
6. (.) nhất, hoặc (.) nhị, hoặc (.) tam, hoặc (.) tứ, tùy theo từng quyển.
7. Chữ (.) nhân này trong nhiều bản chép tay, viết sai ra là chữ (.) tử. Bốn chữ "Thanh tâm tài nhân" ý hẳn là hiệu của tác giả theo như thói thường của các văn sĩ Tàu và hay ký tác phẩm bằng hiệu.
8. Tuy là không biết tác giả tên thực là gì và sống về đời nào nhưng các việc kể trong tiểu thuyết đều thuộc về đời Gia tĩnh nhà Minh tức là tự năm 1522 đến năm 1566, mà sách ấy lại do Kim Thánh thán sống tự năm 1627 đến năm 1662 phê bình (xem lời chú dưới), vậy theo đấy ta có thể biết được rằng sách ấy làm vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVI hoặc đầu thế kỷ thứ XVII.
9. Kim Thánh thán (...) (1627-1662): người cuối đời Minh, vốn họ Trương (.) tên Thái (.), sau đổi họ Kim, tên Vị (.), tự Thánh thán: người cuồng ngạo, có kỳ khí, có phê bình nhiều sách như Thủy Hử, Tây Sương ký. Đến đời nhà Thanh, bị án chết, thọ 35 tuổi.
10. Sở dĩ biết rằng sách ấy do Thánh thán phê bình, vì như trên đã nói, ở đầu mỗi quyển có đề: "Thánh thán ngoại thư" là những chữ ta thường thấy đề ở đầu các sách do ông đã đọc và phê bình (thí dụ trên đầu bộ Tam quốc diễn nghĩa (....)); vả chăng ta lại thấy đề mấy chữ "Quán hoa đường bình luận", mà Quán hoa đường tức là tên thư viện của Thánh thán.
11. Có người cho rằng việc báo oán của Kiều (giết Tú bà, Mã Giám sinh, Khuyển, Ưng) là một việc ác trái với tôn chỉ của đạo Phật lấy chữ từ bi bác ái làm trọng, nhưng ta nên nhận rằng cái tội của bọn ấy phải chịu chính là cái kết quả các việc gian ác của chúng đã làm; vậy việc chúng làm ác gặp ác cũng là hợp với thuyết nhân quả và nghiệp báo của Phật giáo vậy.
12. Về ý kiến nói trong câu này, ta sẽ xét ở Chương XIX khi nói đến truyện Phan Trần.
CÁC TÁC PHẨM ĐỂ KÊ CỨU
1. Phan Sĩ Bàng và Lê Thước, Truyện cụ Nguyễn Du, tác giả Truyện Thúy Kiều, Hà nội, Mạc Đình Tư, 1924.
2. Phạm Quỳnh, Truyện Kiều, NP., t. V.480 tđ.
3. Vũ Đình Long, Văn chương Truyện Kiều, NP, t XIV, tr. 211, 420, td; t XV, tr. 55, 240 tđ.
4. Truyện Kiều và xã hội Á đông, nguyên Pháp văn của René Crayssac, T.-C dịch, NP., t, XIX, tr. 421, 531, tđ.
5. Đồ Nam, Nghiên cứu và phán đoán về Truyện Kiều, NP, t, XXII tr. 41, 150 tđ.
6. Trần Trọng Kim, Lý thuyết Phật học trong Truyện Kiều, KTTDTS, số 1.
7. Đào Duy Anh, Khảo luận về Kim Vân Kiều, Phụ; Thanh hiên thi tập, Huế, Quan hải tùng thư, 1943.
CÁC BẢN IN VÀ CÁC BẢN DỊCH
1. Kim Vân Kiều tân truyện, Nouvelle histoire de Kim Vân et Kiều transcrite et publiée par Edmond Nordemann, 4è éd., Hanoi, Mạc Đình Tư, 1911.
2. Nguyễn Văn Vĩnh, Kim Vân Kiều dịch ra quốc ngữ có chú dẫn các điển tích, in lần thứ tư, Hà nội, hiệu Ích ký, 1915.
3. Bùi Khánh Diễn, Kim Vân Kiều chú thích, Nhà in Ngô Tử Hạ, Hà nội, không đề năm.
4. Nguyễn Du, Truyện Thúy Kiều (Đoạn trường tân thanh) Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, Việt văn thư xã, Hà nội, Vĩnh hưng long thư quán, 1925.
5. Tản đà Nguyễn Khắc Hiếu, Vương Thúy Kiều, chú giải tân truyện, Hà nội, nhà xuất bản Tân dân, 1941.
6. Poème Kim Vân Kiều truyện, transcrit pour la première fois en quốc ngữ avec des notes explicatives, et précédé d'un résumé succinct en prose par.- J. B Trương Vĩnh Ký, Saigon, Imp. du Gouvernement, 1875.
7. Les poèmes de l' Annam Kim Vân Kiều tân truyện, publié et traduit pour la première fois par Abel des Michels. Publications de l' Ecole des langues orientales vivantes, IIe série, vol, XIV et XV Paris, E. Leroux, 1884-1885.
8. Nguyễn Du, Kim Vân Kiều, Traduction en francais par Nguyễn văn Vĩnh, Hanoi, Editions Alexandre de Rhodes, 1942.
9. Kim Vân Kiều, le célèbre poème annamite de Nguyễn Du, traduit en vers francais par René Crayssac, Hanoi, Lê văn Tân, 1927.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét