Thứ Tư, 2 tháng 12, 2009

17- Quyến Gió Rủ Mây - Quach Vinh Thien Paris



Quyến Gió Rủ Mây

Buồn Trông

CD-KVK305 - Từ câu thơ 1047 đến câu 1072
Thơ : Nguyễn Du
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Paris, le 26 Janvier 2008


Ca Sĩ : Quỳnh Lan


Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa,
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
*

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa,
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
*
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh,
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi,
Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu,
Ngậm ngùi rủ bức rèm châu,
Cách tường nghe có tiếng đâu họa vần,
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng.
*
Nghỉ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh,
Bóng nga thấp thoáng dưới mành,
Trông nàng chàng cũng ra tình đeo đai,
Than ôi sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây,
Giá đành trong nguyệt trên mây,
Hoa sao hoa khéo đọa đày bấy hoa,
Tức gan riêng giận trời già,
Lòng nầy ai tỏ cho ta hỡi lòng,

*
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa,
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
*

Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi,
Song thu đã khép cánh ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh,
Nghỉ người thôi lạt nghỉ mình,
Cảm lòng chua xót lại tình bơ vơ,
Những là lần lữa nắng mưa,
Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi,
Đánh liều nhắn một hai lời,
Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
*
Mảnh tiên kể hết xa gần,
Nỗi nhà báo đáp nỗi thân lạc loài,
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang,
Trời tây lảng đãng bóng vàng,
Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi,
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành Tích Việt có hai chữ đề,
Lấy trong ý tứ mà suy,
Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng ?
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.

Un regard triste
( Buồn Trông )
CD-KVK3-05, de vers 1047 à vers 1092.
Musique : Quach Vinh-Thien. Paris, le 26 Janvier 2008.
Traduction : Nguyen Van Vinh

Voix : Quynh Lan


Tristement, elle regarda le port de mer à la tombée de la nuit.
Et se demanda à qui étaient toutes ces barques dont les voiles se montraient et s’éclipsaient alternativement à l’horizon lointain.
Tristement, elle regarda l’onde que le fleuve venait de déverser dans la mer.
A sa surface des fleurs s’éparpillaient dans tous les sens. 

Elle se demanda où allaient toutes ces fleurs.
Tristement, elle regarda encore la vaste plaine aux herbes un peu fanées.

Le pied des nuages et la surface de la terre se confondaient dans un même fond bleu-clair.
Tristement, elle regarda le vent qui soulevait des tourbillons de la baie.
Les vagues faisaient un grand vacarme autour du siège où elle était assise.
Tout autour d’elle c’étaient des rivières et des montagnes étrangères.
Les souffrances de l’exil lui inspirèrent alors quelques vers.
Ennuyée, elle fit tomber le rideau de perles qui garnissait sa fenêtre.      
A ce moment de l’autre côté du mur se fit entendre la voix de quelqu’un qui récitait un poème composé sur les mêmes rimes. 

Un jeune homme dans toute la fleur de l’âge.
Bien peigné et habillé élégamment. 

Elle pensa avoir affaire à quelque lettré de race.
Renseignement pris c’était Monsieur So Khanh. 

Il avait aperçu la belle silhouette de Kieu à travers le store. 
A la regarder il s’était épris d’elle. 
Comment cette beauté unique dans le pays ce parfum céleste. 
A pu s’égarer de son monde et venir s’échouer en ces lieux.
C’est un trésor d’une telle qualité qu’il ne devrait de découvrir que dans la Lune ou sur quelque beau nuage inaccessible. 

Fleur unique, quelle déchéance, Ô fleur.
Mon cœur, ce cœur qui souffre qui donc veut bien me le comprendre, ô mon cœur.
Si la belle veut bien seulement apprécier ma bravoure. 

Je me ferai fort de la libérer de sa prison sans aucun effort. 
Kieu avait déjà fermé les volets de sa fenêtre mélancolique.
Que ses oreilles entendaient encore les échos de ces paroles engageantes.
Sa pensée se porta sur l’homme qui venait de les prononcer puis revint à elle-même.
Elle fut touchée de cette compassion et se sentit moins abandonnée.
Les jours de soleil avaient succédé à des jours de pluie.
Elle se demandait quand devait finir pour elle cette triste vie d’aventures.
Elle prit alors tout son courage et dit quelques mots au galant inconnu.
Pour le prier de tendre sa main généreuse à celle qui se noyait.
Sur un bout de papier à lettre elle lui confia toute son histoire.
L’accomplissement de son devoir de reconnaissance envers les parents et sa triste aventure dans ce milieu infâme. 

Dès que le matin du jour suivant eut dissipé les brouillards de la nuit.
Elle envoya cette missive à son destinataire. 

A l’accident la clarté jaune du jour finissant commençait à devenir confuse. 
Lorsque la réponse de l’inconnu arriva. 
Elle ouvrit pour la lire cette lettre écrite sur du papier orné de fleurs. 
Et n’y trouva inscrits que ces deux caractères Tich Viet.
Ayant mis toute son intelligence toutes ses facultés de déduction à deviner cette énigmatique missive Kieu comprit. 

Le rendez-vous est pour le 21è jour du mois l’heure du chien. 
N’est-ce pas ? Les oiseaux du soir commençaient à rentrer un à un dans la forêt.
A travers les camélias déjà l’on voyait apparaître la lune ne brillant plus que par la moit ì de son disque.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét