Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2009

21- HẬU TRUYỆN KIỀU (TỪ NƯƠNG) - Huy Tử Tô Tấn Tài


HẬU TRUYỆN KIỀU ( TỪ NƯƠNG)

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 22/08/2006 10:34:58 am
HẬU THUÝ KIỀU - TỪ NƯƠNG 
Huy Tử Tô Tấn Tài 

Lời quê chép nhặt dông dài, 
Mua vui cũng được một vài trống canh . 
Nguyễn Du 


MỤC LỤC 

PHẦN I 
Chương 1/ Vương Quan truy án thằng bán tơ 
Chương 2/ Hoạn Thư tự tỉnh và khuyến khích chồng 
Chương 3/ Thúy Kiều mơ gặp Từ Hải 


PHẦN II 
Chương 1/ Kiếp người 
Chương 2/ Vương Quan minh oan cho Từ Hải 
Chương 3/ Từ Nương(Thúy Kiều) được phong chức Cung Trung Giáo và Tình 
yêu thương 


PHẦN III 
Chương 1/ Tình yêu và Hạnh phúc 
Chương 2/ Niềm vui và Nỗi sầu 
Chương 3/ Nỗi niềm của Từ Nương và Lời trăn trối của Vãi Giác Duyên 


HẬU THÚY KIỀU –
TỪ NƯƠNG, 
(tập I gồm 434 câu, câu mở đầu được tiếp nối với câu 3240 của Truyện Kim Vân Kiều - Nguyễn Du: 
...Phong lưu phú qúy ai bì, 
Vườn xuân một cửa để bia muôn đời . )


PHẦN I 
Chương 1 
VƯƠNG QUAN TRUY ÁN THẰNG BÁN TƠ 


Miên trường vật đổi sao dời, 
Giao hòa cuộc sống cho người luyến thương . 
Từ khi cải nhậm Phú Dương, 
Vương Quan sắp đặt huyện đường chỉnh trang, 
Trong ngoài, trên dưới rõ ràng, 
Gần xa nức tiếng quan tràng họ Vương . 
Rước liền Xuân lẫn Huyên đường, 
Vương gia nối dõi tình thương vẹn toàn . 
Chàng bèn tỏ nỗi lo toan: 
"Ngày xưa gia quyến bị oan chưa mờ, 
Mọi điều từ gã bán tơ!" 
Song thân đều khóc: "Nay nhờ cậy con, 
Sông có cạn, đá có mòn, 
Giữ cho Vương tộc mải con tiếng tăm!" 
Vương Quan nghe nói càng căm, 
Mật thư phủ nội, hỏi thăm tin ngoài; 
Qua bao ngày rộng tháng dài, 
Cơ duyên tạo hóa an bài mà nên . 
Chung Công* xưa đã biết tên, 
Bán tơ chính gã chẳng quên được nào 
Thọ hình, án lệnh liền trao, 
Bắt về tra cứu kêu gào vào đâu . 
Tù nhân biết tội khẩn cầu, 
Sự tình sau trước trình tâu mọi điều: 
"Giám Sinh biết được Thúy Kiều, 
Trẻ trung, kiều diễm, thạo nhiều đàn ca; 
Thế là mưu kế bày ra, 
Mướn tôi đem lụa** vào nhà Vương ông, 
Gã ta lên báo huyện công, 
Một mâm hai chén thông đồng ăn chia, 
Giám Sinh ắp ả đẹp kia, 
Tiền vàng quan lấy, chầu rìa cho quân!" 
Vương Quan đau đớn muôn phần, 
Lựa lời mới kể song thân tỏ tường . 
Vương ông càng lại xót thương: 
"Kiều nhi còn trẻ sao vương nợ đời, 
Chủ mưu*** nay đã chết rồi, 
Vương Quan con hãy thảo lời minh oan; 
Công văn, lễ rước của quan, 
Làng trên, xóm dưới, họ hàng cảm thông, 
Thế là cha mẹ thỏa lòng, 
Bao năm tủi nhục chỉ mong ngày này!" 
Vương gia cởi đươc oan dày, 
Phú Dương huyện lệnh tiếng đầy khôn phai . 


*Chung Công là nhạc phụ của Vương Quan 
**Có thể hàng tơ lụa này là của gian 
***Tú bà, Mã Giám Sinh bị xử tử ở Nam kinh 


PHẦN I 
Chương 2/ HOẠN THƯ TỰ TỈNH VÀ KHUYẾN KHÍCH CHỒNG 


"Chồng chung ai dễ chiều ai, 
Ghen tương phận nữ"...ngôn tài Hoạn Thư . 
Nàng về bao nỗi riêng tư, 
Mình là nữ giới chẳng khư đặt điều, 
Vợ hiền bổn phận nuông chiều, 
Giữ mình thanh sạch đáng yêu mới là; 
Thúc Kỳ Tâm đã chồng ta, 
Phải làm nở mặt Thúc gia với đời . 
Bên chồng thỏ thẻ đôi lời, 
Bao người nghèo khổ cho mời đến đây . 
Tin loan ai cũng mừng thay, 
Gạo tiền phát chẩn, trao tay từng người . 
Tiếng đồn vang khắp nơi nơi, 
Thúc gia phúc đức bao lời ngợi ca . 
Cúng dường Tam bảo gần xa, 
Hoạn Thư lời lẽ đậm đà khác xưa, 
Tam tòng, tứ đức chưa vừa, 
Rộng lòng bố thí chẳng thưa chút nào . 
Thúc sinh vui sướng biết bao, 
Được lời khuyến khích tự hào làm trai, 
Phải có chí, phải trao tài, 
Đường đường hảo hán, nào sai tấc lòng . 
Hoạn Thư hạnh phúc bên chồng, 
Đượm câu nhân quả, nhuần lòng từ bi . 


PHẦN I 
Chương 3/ THÚY KIỀU MƠ GẶP TỪ HẢI 


Trời bày gặp gỡ, chia ly, 
Xoay vần hạnh phúc chẳng bì khổ đau . 
Thuý Kiều thổn thức canh thâu, 
Thấy chàng Từ Hải ôm đầu khóc than: 
"Kiều ơi ta bị chết oan, 
Tin lời Vua mới quy hàng Hiến quan, 
Âm dương chia cách đôi đàng, 
Nỗi oan ức ấy nhờ nàng thảo minh!" 
Cả vùng ngời sáng hiển linh, 
Tỉnh ra hoảng hốt biết mình chiêm bao . 
Ngoài vườn chim hót xôn xao, 
Xót người âm cảnh, lòng ngao ngán lòng . 
Rồi sau nhân buổi thong dong, 
"Thúy Vân em hỡi tình trong, lý ngoài; 
Chị đây bao nỗi u hoài, 
Sầu thương chẳng dứt cho ai oan cừu, 
Tình xưa những luyến cùng lưu, 
Đành lòng, Kim Trọng em cưu mang rồi, 
Tiện đây có một đôi lời, 
Chị về bên ấy cho vơi nỗi này, 
Thế là tình vẹn, ý đầy!" 
Vân thưa:" Em vẫn thơ ngây thuở nào, 
Bây giờ chị bảo ra sao, 
Em xin vâng dạ nói vào thế thôi!" 
Chị em rưng mắt, máy môi, 
Sụt sùi kể lể bao lời chia tay . 
"Vân em còn một điều này, 
Lựa lời em hãy tỏ bày chàng Kim!" 

Giờ đây Kiều rộng cánh chim, 
Hàng châu, Vô tích đi tìm thảnh thơi . 
Bập bềnh màn rủ, thuyền trôi, 
Kiệu xe, vó ngựa qua đồi như bay . 
Bình minh non nước đẹp thay, 
Hoàng hôn hình bóng chim mây trên ngàn; 
Ngày đi, tối nghỉ bên đàng, 
Muôn trùng đêm vọng như than thở đời; 
Sẳn nghiên, nàng phóng đôi lời, 
Như ru với gió, như vời cùng trăng, 
Như là dạo bước cung Hằng, 
Chập chờn bào ảnh càng tăng niệm sầu ... 
Giác Duyên xa cách bấy lâu, 
Tình cờ gặp lại nhìn nhau cả mừng; 
Bao lời vồn vả rưng rưng, 
Chứa chan tình cảm, ngập ngừng lời thương; 
Chuyện trò suốt cả buổi trường, 
Miên mang đến nỗi niềm vương chàng Từ, 
Việc nhà với việc riêng tư, 
Tâm tình thổ lộ, lòng thư thái mà . 
Mộ Từ Hải chẳng bao xa, 
Đèn nhang, bánh trái, lá hoa ...sẵn sàng . 
Rạng đông cùng Vãi lên đàng, 
Mộ bên, nàng khấn bao hàng lệ rơi: 
"Từ lang anh hỡi, anh ơi, 
Trời bày chi cảnh chia phôi hỡi Trời, 
Tình nồng thắm khóc nào vơi, 
Lòng thương thổn thức bao lời nào phai; 
Cơ trời sao nỡ an bài, 
Cho ai u uất, cho ai thảm sầu . 
Lên kinh em sẽ trình tâu, 
Trưng điều oan ức, xin cầu phục danh, 
Mong chàng yên nấm mộ xanh!" 
Giác Duyên an ủi, thuyết quanh vô thường, 
Càng khuyên càng cảm xót thương, 
Dần dà đến lúc lên đường về am . 
Nào tranh danh lợi cho cam, 
Oan khiên, tai biến sao kham nỗi lòng; 
Có chồng phải trọn chữ tòng, 
Giải oan việc lớn, còn mong sự gì, 
Thuý Kiều thâu thập liền khi, 
Lần qua Phủ huyện, lượt đi tìm người; 
Nhờ Sư góp ý, dẫn lời, 
Việc nàng nghe thấy có Trời chứng đây; 
Nhờ ơn Thánh đế cao dày, 
Mong sao giải được oan này mới yên! 
Lâu sau mới thấy có tên, 
Lệnh Vua truyền xuống, Kiều lên kinh thành, 
Nàng nghe lời phán chẳng lành: 
"Từ công đã chết, thôi đành cho qua!" 
Cũng vì vị nể mà ra, 
Đâu còn công lý, kêu ca làm gì . 
Mệnh sao bạc thế Kiều nhi, 
Chẳng như ý muốn cứ quy số Trời, 
Đấy câu an ủi người đời, 
Nàng đành bám đó cho vơi nỗi lòng . 
Sầu vương ngày tháng thong dong, 
Chạnh thương cha mẹ, hoài mong gặp người . 
Vương Quan khóc nghẹn cả lời: 
"Chị Kiều về, mẹ cha ơi!" rộn nhà, 
Em dâu cùng với nô gia, 
Láng giềng, già trẻ gần xa tủi mừng; 
Vương ông mắt lệ rưng rưng: 
"Về luôn con nhé, thôi đừng đi xa, 
Quây quần sum họp một nhà, 
Cung vui với cháu, dần qua ưu sầu!" 


PHẦN II 
Chương 1 KIẾP NGƯỜI 


Bao lần trằn trọc đêm thâu, 
Thuý Kiều cảm thấy đớn đau rã rời . 
Lòng sao ray rức khôn nguôi, 
Tâm tư thờ thẩn đứng ngồi nào yên . 
Nhớ thời lưu lạc bao niên, 
Dập vùi thân xác, oan khiên tình người, 
Cười vui, than khóc với đời, 
Mỏi mòn lạy lục, tả tơi khẩn cầu; 
Tâm hồn chai lạnh ngờ đâu, 
Hửng hờ, lạc lỏng bao câu ân tình, 
Ai xe duyên nợ ba sinh, 
Giờ đây sao cảm thấy mình dửng dưng; 
Nhập nhòa nước mắt cạn ngừng, 
Ra người xa lạ biết chừng nào đây . 
Nàng hồi tưởng việc xưa nay, 
Ngỡ ngàng số kiếp đời này thế ư, 
Sao mình tha bổng Hoạn Thư, 
Phải cho một trận ngất ngư mới là; 
Sở Khanh, U*ng, Khuyển ...nên tha; 
Bạc bà, Bạc Hạnh, Tú bà, Giám Sinh,... 
Ghép vào án tội khổ hình, 
Nộp tiền phạt vạ, giam mình vào lao . 
Xưa ta nông nỗi thế sao, 
Cũng vì uất hận tuôn trào mà ra . 
Càng nghĩ lại càng xót xa, 
Thấy người mới biết được ta phần nào . 
Duyên tình bao nỗi lao đao, 
Trót mang thân phận má đào đành cam; 
Thân ta bao kẻ sỡ sàm, 
Có tiền sinh chuyện tiếc ham của trời . 
Chàng Kim uỷ mỵ bao lời, 
Vốn là mơ mộng của thời ngây thơ; 
Thúc sinh say đắm tình hờ, 
Cũng người bạc nhựơc, thẩn thờ mà thôi; 
Có chàng Từ Hải xứng đôi, 
Trượng phu to, khoẻ, cao vời chí trai, 
Thâm tình, trọng nghĩa, chân tài, 
Tấm chồng lý tưởng trần ai mấy người, 
Được cùng Từ Hải suốt đời, 
Yên vui nương tựa, trọn lời yêu đương, 
Cơ trời theo luật vô thường, 
Tâm tư sầu héo, tiếc thương muộn màng . 
Nỗi niềm nàng gởi cung đàn, 
Nghe như lời oán, tiếng than mộ phần, 
Nghẹn ngào, u uất dần dần, 
Chuyển qua trầm khúc như trăn trối gì ... 
Vương Quan nghe nhạc lạ kỳ, 
Tiện lời dạm hỏi: "Sầu bi đượm lòng, 
Cớ sao tỏ với hư không, 
Niềm tin sao mất, hoài mong sao rời ?" 
Kiều than: "Lòng chị rối bời, 
Từ lang u uất có Trời biết thôi, 
Minh oan chị thảo bao lời, 
Vua phê: "Từ Hải chết rồi cần chi!" 


Chương 2 
VƯƠNG QUAN MINH OAN CHO TỪ HẢI 


Vương Quan hiểu ý nghĩ suy, 
Rồi đây ta sẽ tuỳ nghi giải bày, 
Văn nhân mời gọi liền tay, 
Cùng nhau thảo luận việc này cho thông, 
Tường trình cơ sự Từ công: 
"Trượng phu nuôi chí, dốc lòng bốn phương; 
Gặp thời loạn tặc nhiễu nhương, 
Quan quân nhũng lạm, cương thường mạt vong, 
Chàng Từ Hải, bậc anh hùng, 
Trừ gian, diệt bạo,...khắp vùng ngợi ca; 
An bình một nửa sơn hà, 
Nghĩa nhân, trung tín chẳng xa tấc lòng, 
Hoài mong thần phục bệ Rồng, 
Tin Vua, Từ mới thả vòng binh đao, 
Để làm quan chức tại trào, 
Đâu ngờ quan Hiến tròng vào tội gian: 
"Ngang nhiên chống lệnh Vua ban!" 
Vậy là Tổng đốc giết oan một người, 
Việc này đồn đại ngoài đời, 
Có ai mà dám làm tôi Triều đình; 
Nay nhờ Thánh đế anh minh, 
Sáng soi công lý, an bình lòng dân!" 
Vua bèn hội ý quần thần, 
Ngay trong chánh điện nhắc cân từng điều, 
Phán rằng: "Việc ảnh hưởng nhiều, 
Hồ công bị giáng, Thuý Kiều được ân ." 
Từ nương* bổng lộc bao phần, 
Vương Quan nổi tiếng cũng nhân dịp này, 
Chung công, Viên ngoại mừng thay, 
Tạ ơn Thánh đế ơn dày nào quên, 
Công danh, phúc lộc rộng thênh, 
Vương gia nối dõi sáng tên khắp vùng . 


Ghi chú: *Từ nương/ Thúy Kiều được gọi theo họ chồng Từ Hải .

Chương 3 

TỪ NƯƠNG ĐỰƠC PHONG CHỨC 
CUNG TRUNG GIÁO 
VÀ TÌNH YÊU THƯƠNG 


Rồi sau nhân việc trong cung, 
Tuyển Cung Trung Giáo rốt cùng nào ra; 
Vương Quan trình tấu gần xa: 
"Từ nương thông thạo ngâm, ca, họa, đàn ..." 
Vua thương ban chiếu gọi nàng, 
Vừa phong chức phận, vừa ban lụa là . 
Thời cơ trổ hết tài hoa, 
Từ nương nổi tiếng gần xa lẫy lừng ... 

Vinh hoa, lễ nghĩa bày trưng, 
Xin Vua được phép tạm dừng việc công . 
Loan nghi về xứ Việt đông, 
Đây là quê nội của chồng Từ lang; 
Bà con trên dưới bàng hoàng, 
Cô dâu ra mắt hai đàng họ trai, 
Từ xa nàng khấu vị bài, 
Vệ quân, thị nữ nối dài theo sau; 
Người người nhìn sửng nàng dâu, 
Đẹp như tiên nữ từ đâu giáng trần, 
Từ gia đây đó tần ngần, 
Ngỡ ngàng chợt có người thân trong nhà . 
Từ nương cúi lạy Từ bà, 
Bẫm trình: "Tiện nữ chính là con dâu, 
Gia nhân xa cách đã lâu, 
Nay con về đến xin hầu mẹ đây, 
Công cha, nghĩa mẹ cao dày, 
Chúng con hổ thẹn chưa ngày báo ân!" 
Từ bà bá cổ ân cần: 
"Nuôi con đâu nghĩ đỡ đần về sau, 
Người còn sống, còn thấy nhau, 
Vui vầy là quý, chẳng cầu điều chi, 
Hôm nay như thể vu quy, 
Đường xa mệt mỏi, thôi thì nghỉ ngơi!" 
Rồi nàng chào tạ bao lời, 
Bà con cô bác nơi nơi tủi mừng, 
Chị em mắt lệ rưng rưng, 
Chuyện trò vui vẻ như từng quen thân . 
Cùng Từ gia rước mộ phần, 
Lập nên một miếu, cầu an cho chồng, 
Một bia đá dựng bên trong, 
Chiếu Vua ở giữa, hình rồng hai bên . 
Danh thơm, tiếng tốt tự nên, 
Rỡ ràng công phận không quên lòng từ, 
Gần xa tam tộc, Vãi, Sư, 
Dong tình giúp đỡ, cũng như cúng dường; 
Đồng thời hợp với Huyện đường, 
Túi cơm, giá áo mười phương lập đời . 
Từ nương trân trong ngỏ lời: 
"Cả nhờ công đức sáng ngời Minh vương, 
Đề cao đạo nghĩa yêu thương" 
Rồi nàng giả biệt lên đường về kinh . 

Ngẫm trong đức hạnh nhân sinh, 
Vượt lên tất cả là tình yêu thương, 
Hài hoà, giao kết mọi đường, 
Góp phần tạo dựng bốn phương an lành; 
Nơi nơi hiến pháp lập thành, 
Luật hình đã thiết, thi hành cần chi, 
Đấy là lý tưởng VÔ VI, 
Giới, Thiền, Trí tuệ đều qui về tình*. 


GHI CHÚ: * Cung Trung Giáo là một chức trong cung Vua, có nhiệm vụ hướng dẫn và huấn luyện các cung phi . 
**"Vinh hoa, lễ nghĩa bày trưng" có ý như câu ngạn ngữ: Phú quý sinh lễ nghĩa. 
Huy Tử Tô Tấn Tài - Boston, MA .

*** "Giới, Thiền, Trí huệ đều qui về tình ." 
Chúng ta có thể nói, tình thuộc về DIỆU TÂM . 
Đại sư Long Thọ (tác giả Trung Quán Luận) đã luận giải Bát Nhã 
Tâm kinh, có đọan: 
"...Giới hạnh chỉ dụ về Da, 
Thiền định chỉ dụ về Thịt, 
Trí huệ chỉ dụ về Xương, 
DIỆU TÂM chỉ dụ về Tuỷ ..." 

Trong Phật giáo có ngũ giáo: Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên; 
và tứ cảnh giới: Khai, Thị, Ngộ, Nhập . 
Cũng theo Đại sư Long Thọ, Pháp giới Sự Sự Vô Ngại và Trùng Trùng 
Duyên Khởi trong Viên giáo Hoa Nghiêm ở cảnh giới thứ nhất "KHAI" 
(giáo - trí huệ). Bậc hành giả nào thể nhập DIỆU TÂM, tức bắt đầu 
thể nghiệm cảnh giới thứ hai "THỊ". Hai cảnh giới "NGỘ - NHẬP" là 
tiến trình tâm thức của DIỆU TÂM thông nhiếp các giới hạn còn lại . 
[Luận điểm trên của Đại sư Long Thọ vừa tế nhị vừa sống động, 
kẻ hèn mọn, hậu sinh này cảm nhận mình chỉ là người phục dịch trong 
các tiệc văn chương .] 


PHẦN III 
Chương 1 
TÌNH YÊU VÀ HẠNH PHÚC 


Có nhiều ý tưởng phát sinh, 
Vốn từ tuổi trẻ, phân minh sau này; 
Có bao nhiêu bộ sách dày, 
Những điều chưa biết chứa đầy bên trong . 
Văn thơ thổ lộ nỗi lòng, 
Cảm tình, hoài vọng trong vòng từ chương; 
Là nghệ thuật, là con đường, 
Nhận ra hiện thực vô thường vần xoay . 
Kiếp người trên cõi đời này, 
Chỉ TÌNH YÊU mới tỏ bày thỏa viên; 
Tình thương chinh phục như nhiên, 
Kết giao muôn sự, bình yên mọi đường; 
Tình thương sinh khởi tình thương, 
Tình thương dịu chí ngoan cường xưa nay; 
Bao nhiêu hoài niệm đắng cay, 
Nhờ tình yêu mới làm khuây khoả lòng; 
Tính người ích kỷ lòng vòng, 
Chính tình yêu đã vun trồng từ tâm; 
Yêu nhau mờ xoá lỗi lầm, 
Quan tâm người ấy còn chăm hơn mình; 
Cô nàng khờ khạo bình sinh, 
Tình yêu khiến ả khôn tinh hơn người; 
Mấy anh tài trí trên đời, 
Vướng vòng tình ái buông lời bâng quơ; 
Tình thương chợt đến bất ngờ, 
Gặp người trong cảnh vật vờ, khổ đau; 
Tình yêu muôn vạn phép mầu, 
Kết vòng lý tưởng năm châu một nhà; 
Tình yêu, đời có trải qua, 
Thể minh đức hạnh người ta thế nào; 
Dù muôn sự việc ra sao, 
Bởi yêu nên đẹp biết bao đó mà; 
Con người cư xử gần xa, 
Trở nên cao đẹp ...hẳn là tình yêu . 

Tình yêu cảm nhận bao nhiêu, 
Tình yêu thể hiện càng nhiều thiết tha; 
Ấu thơ nương tựa mẹ cha, 
Thiêng liêng cao quý, nở hoa tuyệt vời; 
Tình yêu con cái trong đời, 
Chạ chung, sở hữu như lời xưa nay, 
Vốn tình cốt nhục cao dày ... 

Trưởng thành bằng hữu có hay chăng cùng , 
Vừa đồng cảm, vừa chạ chung, 
Tình yêu bè bạn tương phùng nơi nơi ... 

Thế tôn là bậc cao vời, 
Yêu thương nhân loại bao đời khổ đau, 
Vô minh, tội lỗi ngập sâu, 
Tinh thần yếu đuối lọ cầu chân tâm; 
Các Ngài tư tưởng uyên thâm, 
Gợi trưng chân lý ngấm ngầm thế thôi ... 

Tình yêu chuyên nhất lứa đôi, 
Là tình tư kỷ muôn đời khôn phai, 
Nghiệt như thần chết chẳng sai, 
Ghen tương ác hiểm như loài thú hoang; 
Với bao sự việc liên quan, 
Giao hoan truyền giống, buộc ràng hôn nhân, 
Gia đình, xã hội, nhân quần, 
Tình yêu đôi lứa góp phần lớn lao ... 

Tình yêu hoa thắm ngạt ngào, 
Mật hương HẠNH PHÚC dạt dào tỏa quanh; 
Hạnh: may mắn, phúc: tốt lành, 
Người người êm ấm là mình an vui; 
Hạnh phúc chỉ thoáng trong đời, 
Là niềm hy vọng, là lời chúc nhau; 
Biết dừng, biết đủ họa cầu, 
Bằng lòng với phận ...đấy câu an nhàn; 
Tưởng mình hạnh phúc chứa chan, 
Chỉ là cảm nhận thiên đường quanh đây; 
"Chính trong đức hạnh cao dày, 
Có niềm hạnh phúc dựng xây vô hình;" 
Phải chăng hạnh phúc nhân sinh, 
Chẳng xa mà chế dục tình đắm mê ... 


Chương 2 
NIỀM VUI VÀ NỖI SẦU 


Niềm vui là nhựa tràn trề, 
Của cây hạnh phúc đương thì xanh tươi; 
Niềm vui là mật đầy vơi, 
Của hoa hạnh phúc vang lời hoan ca; 
Niềm vui gieo rắc gần xa, 
Trào dâng hạnh phúc, chan hoà tình thương; 
Niềm vui rực sáng mọi đường, 
Đầy trời hy vọng, ngập vườn tình yêu, 
Tràn niềm tin tưởng hòa theo ... 

Càng vui thích lắm càng reo tiếng cười, 
Cười gây thiện cảm nhiều người, 
Cười là âm nhạc của thời văn minh, 
Cười là bí quyết dưỡng sinh, 
Cười là liều thuốc bổ tinh thần người ... 

Trăm năm thảng hết một đời, 
Vội yêu có thắm, rộn cười có vui ? 
Phận người luống những ngậm ngùi, 
Đau thương, khốn khổ ... gấp mười lần hơn, 
Hẳn từ quyền lực tự tôn; 
Đại dương máu lệ, Thái sơn xác người; 
Căn trình đau khổ trong đời: 
"Vô minh, yếu đuối, mọi tôi bạo quyền ..." 
Nhân sinh chìm đắm triền miên, 
Trong dòng thác lũ chẳng yên được nào . 


Chương 3 
NỖI NIỀM CỦA TỪ NƯƠNG
VÀ LỜI TRĂN TRỐI CỦA VÃI GIÁC DUYÊN 


Bao lời thổn thức nghẹn ngào, 
Ngỡ ngàng vận mệnh, khát khao chân tình . 
Từ nương tơ tưởng một mình, 
Nỗi niềm vương vấn, lai trình về đâu ? 
Trần gian bao cuộc bể dâu, 
Thân đà luống tuổi mơ cầu điều chi, 
Đau thương vùi lấp xuân thì, 
Lọ là luyến tiếc, còn gì mà mong! 

Lang thang dinh thất, tư phòng, 
Từ nương thoáng thấy bên song có người; 
Nữ tì cúi mặt thốt lời: 
"Hàng châu trao lại thiếp mời Giác Duyên, 
Sư bà trọng bệnh nhắn lên, 
Ngỏ lời trăn trối, đáp đền nghĩa ân!" 
Rụng rời, đau đớn muôn phần, 
Gặp Sư cấp tốc nào chần chờ lâu; 
May thay nàng kịp đến hầu, 
Sư còn thoi thóp mấy câu sau cùng: 
"Thỏa lòng với phút tương phùng, 
Tâm không đâu nhiễm nhớ nhung, muộn phiền; 
Tâm hồi trạng thái bình yên, 
Là nhờ đức hạnh gắn liền nghiệp thân; 
Cầu Giải thoát, đạt Niết bàn, 
Chính ngay trong cõi hồng trần này đây!" 
Từ nương lo liệu ma chay, 
Dựng bia, đắp mộ cùng thầy cầu siêu; 
Phật đường trở lại đìu hiu, 
Đèn nhang nhả khói, bóng chiều đổ xa; 
Tiện lời thưa gởi Sư bà, 
Thỉnh xin khoát lại cà sa tại chùa; 
Trạc Tuyền là pháp danh xưa, 
Kệ kinh hằng tụng, muối dưa ấm lòng 
.

(Hết tập I) 
Huy Tử Tô Tấn Tài - Boston, MA .



PHỤ LỤC 
Thơ vịnh - VƯƠNG THÚY KIỀU 


Cái nghiệp đành mang chẳng trích gì, 
Một thiên bạc mệnh qúa lâm li . 
Hoạn Thư người hỡi hờn vương mắt, 
Từ Hải chàng ơi lệ đẵm mi . 
Kim Trọng tấm tình em chắp nối, 
Tiền Đường lắm nợ chị ra đi . 
Mười lăm năm trải bao chìm nổi, 
Tiết nghĩa còn gương phận nữ nhi . 


THƠ /CẢM ĐỀ - VƯƠNG THUÝ KIỀU 

Hẳn, 
Vương Thúy Kiều xinh, 
Nên, 
Kim Trọng vướng tình, 
Mới, 
Động lòng Thúc sinh, 
Khiến, 
Từ Hải bỏ mình. 


[Manila, 1999]- Huy Tử Tô Tấn Tài - 
Boston, MA .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét