Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2009

19 - ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH - Phạm Thiên Thư (1-550)


Nguyên bản : ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH
Tác giả : Phạm Thiên Thư
(NXB Trẻ - TP HCM- 2006)

ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH (câu 1- 550)

gửi bởi tranngoc » 02/03/2008
ĐÔI LỜI PHI LỘ

Trước hết, xin gửi lời cáo lỗi đến anh Phạm Thiên Thư vì không thể liên lạc trước để có đôi lời xin phép về việc đưa tác phẩm Đoạn Trường Vô Thanh lên website này. Tuy vậy, cũng mong anh sẽ vui lòng cho phép chúng tôi đưa ĐTVT vào forum này để quảng bá cho mọi người biết thêm về anh và tác phẩm này.


Website http://www.truyenkieu.info là một trang tư liệu phi lợi nhuận, chỉ duy nhất một mục đích là phát huy văn hoá nước nhà nói chung và quảng bá Truyện Kiều của Nguyễn Du - một tác phẩm “đặc biệt” trong kho tàng văn hoá Việt- mà “Đoạn Trường Vô Thanh của anh lại được xem như một “Hậu Truyện Kiều”. Chẳng những thế, là một trong vài “Hậu Truyện Kiều” công phu và có giá trị nhất trong Thế kỷ 20. Bởi vậy cùng với mục tiêu "quảng bá và phổ cập Truyện Kiều của Nguyễn Du", chúng tôi cũng muốn quảng bá và phổ cập "Hậu Truyện Kiều". Nhưng nếu tác giả hoặc bất cứ cá nhân nào có liên quan đến "tác quyền" của ĐTVT không đồng tình với ý định của chúng tôi xin cứ liên hệ Ban Quản trị qua website này, chúng tôi sẽ xin cáo lỗi và gỡ bỏ ngay toàn bộ nội dung này.

Ban quản trị website mạo muội xin đưa tác phẩm này lên để các bạn thành viên và bạn đọc gần xa đọc và tham khảo thêm. Mọi ý kiến thắc mắc, đóng góp xin liên hệ tại forum hoặc email tranngoc_family@yahoo.com .

Trân trọng.







ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH (câu 1- 550)

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 02/03/2008 01:29:49 pm
ĐÔI LỜI PHI LỘ

Trước hết, xin gửi lời cáo lỗi đến anh Phạm Thiên Thư vì không thể liên lạc trước để có đôi lời xin phép về việc đưa tác phẩm Đoạn Trường Vô Thanh lên website này. Tuy vậy, cũng mong anh sẽ vui lòng cho phép chúng tôi đưa ĐTVT vào forum này để quảng bá cho mọi người biết thêm về anh và tác phẩm này.




Website http://www.truyenkieu.info là một trang tư liệu phi lợi nhuận, chỉ duy nhất một mục đích là phát huy văn hoá nước nhà nói chung và quảng bá Truyện Kiều của Nguyễn Du - một tác phẩm “đặc biệt” trong kho tàng văn hoá Việt- mà “Đoạn Trường Vô Thanh của anh lại được xem như một “Hậu Truyện Kiều”. Chẳng những thế, là một trong vài “Hậu Truyện Kiều” công phu và có giá trị nhất trong Thế kỷ 20. Bởi vậy cùng với mục tiêu "quảng bá và phổ cập Truyện Kiều của Nguyễn Du", chúng tôi cũng muốn quảng bá và phổ cập "Hậu Truyện Kiều". Nhưng nếu tác giả hoặc bất cứ cá nhân nào có liên quan đến "tác quyền" của ĐTVT không đồng tình với ý định của chúng tôi xin cứ liên hệ Ban Quản trị qua website này, chúng tôi sẽ xin cáo lỗi và gỡ bỏ ngay toàn bộ nội dung này.


Ban quản trị website mạo muội xin đưa tác phẩm này lên để các bạn thành viên và bạn đọc gần xa đọc và tham khảo thêm. Mọi ý kiến thắc mắc, đóng góp xin liên hệ tại forum hoặc email tranngoc_family@yahoo.com.
Trân trọng. 





Hình ảnh




Nguyên bản : ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH
Tác giả : Phạm Thiên Thư
(NXB Trẻ - TP HCM- 2006) 




XƯA LÀ GIỌT LỆ 



Bức thứ nhất: 

(Giải bày tâm thức,

Thuý Kiều sau cuộc đoạn trường) 



Lòng như bát ngát mây xanh,

Thân như sương tụ trên cành Đông mai.
Cuộc đời-chớp loé mưa bay,
Càng đi, càng thấy dặm dài nỗi không.
Thân Tâm bệnh-nghiệp trần hồng
Lên đênh trầm nguyệt, bềnh bồng phù vân.
Giam trong Tài, Mệnh, Giả, Chân.
Trăm năm hồ dễ một lần bay cao.
Đau lòng chuốt tiếng đàn nao.
Năm cung nước chãy lại chao phận mình.(10)
Đời Kiều qua mấy nhục vinh,
Ngà, Nhân đã vượt, thế tình đã qua.
Hình ảnh

Đoạn Trường sổ gói tên Hoa,
Xưa là Giọt Lệ- Nay là Hạt Châu




II. SỚM TẾCH BẾN HỒNG.

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 02/03/2008 03:24:55 pm



II. SỚM TẾCH BẾN HỒNG.


Bức thứ hai:

(Thực chất tình yêu Kim Kiều)



Đền nhau tơ tóc duyên đầu

Ba năm – trăng dãi hoa dầu thế thôi.
Ý người – sóng nổi, mây trôi
Chốn xa tìm đến, đến rồi- lại đi.
Hiên Thu lần lữa cầm kỳ
Chén quỳnh lạnh rượu, câu thi biếng vần.(20)
-oOo-
Trước còn nể nguyệt ươm Xuân,
Lần hồi lối cũ sương ngần hạt sa.
Kể từ hương lửa một nhà,
Phôi pha - thì nhớ, đậm đà- thì quên.
Kiều xưa như suối qua triền,
Rêu khô lệ đợi, trăng phiền dáng theo.
-oOo-
Ngựa dong, phố sớm, thôn chiều.
Lang thang gió rụng, tiêu điều bụi bay.
Chàng Kim dường tỉnh dường say,
Mây xuôi nhớ tóc, hoa lay nhớ người.(30)
Mười lăm năm lại đơm tươi,
Duyên may, bọt sóng chim trời gặp nhau.
Lan xưa in đáy dòng sầu,
Trách chi con suối nhạt màu thời gian.
Trăng nao man mác tơ đàn,
Chừ nghe hờ hững đôi làn khói bay.
Lò trầm ai chửa ngừng tay,
Mà sao hơi lạnh như ngày mưa thưa.
Vui giờ nuối cái buồn xưa,
Chút gì để nhớ, để chờ, để không...(40) 

Tưởng đàn nối nhịp tơ đồng,

Thuyền trăng sớm tếch bến hồng bay lên.
Chơi vơi trong cõi diệu huyền,
Đời Kiều dệt một trường thiên tuyệt vời.




Gửi bàigửi bởi tranngoc » 02/03/2008 05:09:36 pm



III.RUỔI RONG NHẬT NGUYỆT.


Bức thứ ba: 

(Vẽ cuộc du sơn, Kiều nhìn đôi hài của mình,

ngộ ra mọi cuộc tìm kiếm bi đát của kiếp người)


Hình ảnh


Nửa Thu nhân tiết đẹp trời,

Non nghiêng-bút dựng, mây đời, - mực sa.
Thênh thang cáng gấm, tàn hoa,
Chàng Kim ngựa trước, áo nhoà sắc mây.
Một nhà lên núi xem mây,
Rèm thưa hoa động, dấu giày sương đơm (50)
Kiệu dừng bãi núi cỏ thơm,
Lên cao mới biết là đường quanh co.
Giải sông xanh vẳng câu hò,
Lau vàng thấp thoáng cánh cò về trưa.
Bà Vương chỉ áng mây đưa,
"Chân trời mờ mịt, quê xưa chốn nào ?
Cuối thu hẳn chơm bông đào,
Vườn ta – ai biết giờ vào tay ai ?
Thân già như hạt sương mai,
Cố thôn liệu có còn vài đêm huyên ?" (60)
Vân thưa: "Trăm nhớ ngàn phiền,
Nhắc chi chuyện cũ hồ quên bấy ngày".
Kim rằng: "Sương nổi hoa lay,
Cố hương tưởng gợn gió mây rùng mình.
Lời xưa “Đất dưỡng trời sinh”
Không ơn ngô lúa, cũng tình trầu cau".
Kiều nghe, môi điểm khoé sầu,
Vời trông cái nhạn về đâu tít mù.
Rừng vàng hiu hắt hơi thu,
Ngàn hoa vẳng tiếng chim gù thiết tha (70)
Đầu sông dằng dặc sóng xa,
Chèo ai nhẹ lướt la đà khói giăng.
Tay Kiều rẽ lối sương băng,
Mắt nàng ẩn nửa vầng trăng dõi buồn.
Đá triền tựa ngó mây tuôn,
Bông may cỏ úa nẻo buồn hắt hiu.
Lưng non nhàn nhạt nắng chiều,
Trông hài mình- nhớ bao nhiêu dặm trường...
-oOo-
Tưởng Từ- yên ngựa thanh gươm
Ruỗi rong nhật nguyệt bốn phương là nhà (80)
Tưởng mình- thủa lỡ chân sa,
Cành nghiên, suối nhận kiếp hoa lạc loài.
Kim thì lẽo đẽo thiên nhai,
Mây bay gió thoảng, dấu ai mà tìm.
Mịt mờ cồn cát chân chim.
Lòng riêng hỏi mảnh trăng im cuối đường.
Rã rời bao dấu hài vương,
Gặp chi trong cuộc vô thường mà mong.
Cõi sầu sao rộng mênh mông,
Tìm đâu một chốn bụi hồng dung thân (90)
-oOo-
Chợt nghe tiếng trẻ trong ngần,
Trông lên Tiểu Nguyện đang lần bước hoa (*)
"Con tìm bá mẫu gần xa,
Bây giờ mới biết mẹ qua chốn này".
Kiều vời, bảo “Nguyện ngồi đây,
Con ơi, thử nắm bóng mây xem nào !”
Trẻ reo: “Mẹ bắt được sao ?”
Nàng cười, ôm Nguyện nghiêng vào vòng tay.
Chẳng ai bắt được mây bay,
Đêm đêm lơ lửng, ngày ngày lang thang.(100)
Khác chi cánh bướm nhuỵ vàng,
Tìm bay vơ vẩn dưới tàng hoa thơm
-oOo-
Thôn xa giải khói nhoà sơn,
Tà dương thẫm mảnh thâm sơn cuối trời.
Thoảng đưa tiếng gọi, tiếng mời,
A hoàn tìm đến, mở lời cung nghinh.
Bẩm thưa: “ Quan sắp đăng trình,
Thỉnh bà lên kiệu, về dinh kịp đoàn”
-oOo-
Sông Thu uốn lọn tơ vàng,
Bèo xuôi biêng biếc, sóng vàng dập dìu.(110)
Chim di xao xác đường chiều,
Dường tha lác đác ít nhiều hạt sương.
Non nghiêng vách tía trời hường,
Sau lưng của núi mây vương mịt mờ.






Chú thích:

* Tiểu Nguyện là con của Kim Trọng và Thuý Vân



IV.BÔNG CHỜ BÊN SÔNG

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 03/03/2008 11:56:51 am



IV.BÔNG CHỜ BÊN SÔNG


Bức thứ tư: 

(Kiều ngồi tựa hiên trăng mơ thấy

bay lên như cánh hạc trời

trong âm đàn chưa dứt tắt của lòng nàng.) 



Kiều ngồi ngó mảnh trăng tơ,

Chùm sao Thu nở bông chờ bên sông.
Mênh mang dặm biếc cồn hồng,
Cúc tươi cánh nguyệt, liễu hồng tơ mây.
Phòng Thu trầm biếng hương gây,
Vườn trăng thêu nhạt dấu hài lối qua.(120)
Côn trùng rỉ rả âm ba,
Gió đêm lãng đãng mưa ngà tơ phơi.
Dường trong hiu hắt Thu hơi,
Thôn sương chầy nguyệt cũng lơi nhịp sầu.
Đò đưa ai hát qua cầu,
Tiếng ca cùng nước sông mau lạnh lùng.
Lầu mai từ thủa tơ chùng,
Tay lan khép gió, năm cung bụi dày.
Đêm đêm nhớ ngón tơ này,
Đã từng đưa lá thuyền say sóng nhồi.(130)
Mà lòng âm hưởng chưa thôi,
Những khi quạnh quẽ- bồi hồi sóng thiêng.
Cây dài bóng xê1 nghiêng nghiêng,
Kiều ngồi xoã tóc trên thềm hương đưa.
Có trăng chia sẻ đời thừa,
Tình riêng- trăng tỏ bây giờ không trăng.
Nào đêm lối đẫm vườn băng,
Nào lầu khoá nguyệt giam hằng, thở than.
Nào Từ cưỡi gío quan san,
Mảnh trăng tri kỷ chưa tàn lòng nhau (140)
Từ ngày nguyền bỏ tơ đau,
Trăng cài liễu tưởng- phím sầu quạnh thêm.

Hình ảnh

Kiều đang chìm lắng nỗi niềm,
Dế in tiếng gọi- Kim thềm dáng ai.
Áo nào nguyệt giải sương phai,
Ngập ngừng bên dậu, hoa cài gió quanh.
Vườn sao lại rẻ hài xanh,
Riêng thềm tựa mộng, thiếp cành hoa xinh.
-oOo-
Gió đưa phảng phất hương quỳnh,
Ướp con bướm mộng vô tình lại đây (150)
Trăng vàng chênh mái hiên Tây,
Khoé tiên dìu dịu, bóng cây vật vờ.
Duới hoa thấp thoáng giọt tơ,
Ánh sao le lói vương bờ tóc bay.
Mi Kiều rũ nét lan say,
Thiếp đi mộng thực phương này là đâu.
-oOo-
Lên non mây trắng lợp đầu,
Vờn bay theo ngọn cờ lau xạc xào.
Hai bên thắm lý tươi đào,
Kiều như cánh hạc bay vào phù vân (160)
Cỏ vàng lấp mấy dòng chân,
Sáo tiên hoà với đàn thần du dương.
Bỗng dưng biêng biếc non suơng,
Thành cây cầu lững mây vương mịt mờ.
Trước sau chẳng bến chẳng bờ,
Bước chân theo tiếng trúc tơ dặt dìu.
Bâng khuâng trăm nỗi lòng Kiều,
Như dòng thơ nhẹ phiêu diêu ngang trời.
Chừng đâu sương cuộn mây dời,
Chừng đâu hạc ruỗi hoa rơi mấy từng.(170)
Lênh đênh lả cánh lan rừng,
Nửa đêm chợt tỉnh ngó vừng trăng nghiêng.
Lòng Kiều mang mác nỗi riêng,
Nào hay thoáng mộng ứng điềm chi đây.
-oOo-
Chân rời hiên nguyệt mái Tây,
Lò trầm khơi lửa bao ngày than trơ.
Lặng nhìn sợi khói ngẩn ngơ,
Còn leo lên ngọn mây mờ nửa sao.
Cây cầu lửng giữa trăng sao,
Phải chăng- của ngõ đi vào huyền căn ?(180)
-oOo-
Tiếng tơ kết kén ôm tằm,
Biết đâu hoá bướm- trăm năm một lần.
Nhớ nàng ứng mộng đêm xuân,
Giục nhau trả hết nợ nần bụi vuơng.
Sông xanh giở sổ đoạn trường,
Sóng đàn ơi, trả phím hường nổi trôi.
Tưởng đâu xác dạt sóng nhồi,
Hồn theo nước chảy bồi hồi tình xưa.
Đâu ngờ cái số hạt mưa,
Còn dài như một âm thùa chưa nguôi. (190)
Tưởng cung nguyệt trổ hoa tươi,
Nào hay mười ngón nước xuôi bẽ bàng.
Từ đêm vắng bặt tơ đàn,
Nợ nần ngày cũ chưa tan sợi nào.
Mông Thu phơ phất hiên đào,
Cầu mây còn bắc lối vào sông trăng.
Lụa ngà thẵm lệ hoen khăn,
Gà đâu tiếng gáy đã rần ngõ hoa.




V.SO DÂY SÓNG GỢN.

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 03/03/2008 12:12:49 pm



V.SO DÂY SÓNG GỢN.


Bức thứ năm:

(Kiều lại dùng đàn giải buồn, thì Kim Trọng

tới thăm kể về cái chết kiên cuờng của một

dư đảng Từ Hải với cây đàn đeo bên người) 



Tơ chùng tưởng cuốn mưa sa,

Hiên văn khép mở phên hoa khói trầm (200)
Bao năm vùi giữa cát lầm,
Như cành sen trổ trong đầm hạ xanh.
Giờ Kiều lại nối âm thanh,
Thử đem sương gió tạo thành cung dây.
Tiếng đàn rã liễu rời mây,
Ngón tay dã hạc vờn bay dặt dìu.
Hai hàng lau lách đìu hiu,
Đồi phong lá gọi bóng chiều xác xao.
Hạt đàn tấm tức nao nao,
Suối tuôn mạch đá đau bào lòng non (210)
Lơ thơ hoa trải đường mòn,
Bâng khuâng ráng đỏ theo con nhạn về.
Năm cung da diết đê mê,
Nắng hoen thềm phấn, hoa kề song hương.
Ngón cong-đàn trổ nụ hường,
Ngón xuôi-tơ rụng, hoa vương mấy dòng.
Bước đàn cao thấp long đong,
Dư ba tóc biếc mơ mòng liễu xanh.
Lòng nào thoảng khói mong manh,
Lệ rơi ánh mắt tan tành sầu oan.(220)
Lúc thì như điếng, như tan,
Lúc thì phiêu lãng như làn trầm bay.
Hoá thân vào mấy cung dây,
Lửng lơ mây nhạc, vơi đầy dòng thơ.
-oOo-
Chàng Kim dãi mũ phất phơ,
Khi chau ngàn liễu, khi chờ non trăng.
Tiếng đàn im bặt dòng băng,
Sân ngoài chàng mới xin rằng : “Tự nhiên”
Tóc vương tay nhuỵ băng nguyên,
Khóe môi khép nép nửa viền mận tươi (230)
Kiều thưa: “Mấy tiếng tơ lơi,
Tưởng đâu dừng phím như lời nguyền xưa.
Lòng riêng chưa tắt âm thừa,
Chiều nay lại rũ tiếng mưa giang hà.
Mải mê nào biết đâu là,
Nhóm hương cung thỉnh lên nhà thưởng âm”
-oOo-
Kim rằng : “Thăm gác Mai Trầm,
Dười hoa tơ vằng sương thầm hạt say.
Mái Đông tìm ghé nơi này,
Bên thềm nghe vẳng tơ bay dặt dìu (240)
Mà sao hiu hắt muôn chiều,
So tơ xưa lại tiêu điều sầu hong.
Hay ta đòi đoạn việc công,
Chiều nay nghe thoáng nên lòng cảm ra.
Xin nàng thêm khúc tài hoa,
Thử xem thanh ứng có là khác hơn”
-oOo-
Hương trà đôi chén khay sơn,
So dây sóng gợn lòng đờn lại tươi.
Hồn xanh xanh ngắt da trời,
Hoa Thu não nuột rung mười ngón son (250)
Nửa cung ngơ ngác trăng non,
Nửa cung nắng quái sông còn vàng phai.
Chợt nghe Tiểu Nguyện reo ngoài:
“Đàn chi khiến nở thêm vài ngọn bông !”
Âm thừa gờn gợn mênh mông,
Ngoài song thấp thoáng bóng hồng Thuý Vân.
Cuối vườn cỏ úa, lui chân,
Dắt con, chẳng dám cho gần dư ba

Hình ảnh

Dâng chàng thêm một tuần trà,
Đèn khêu chênh mảnh gương ngà mái thơ.(260)
Kiều thưa: “Vụng rối cung tơ,
Có buốn quân tử - xin nhờ lượng cao.
Từ đây dù có thế nào,
Tiếng đàn lại để rơi vào nguôi quên”.
-oOo-
Kim ngăn: “Điều ấy chẳng nên,
Vì ta bao mối ưu phiền đảm đương.
Sáng nay ngồi trực công đường,
Trọng hình xử phạt những phường bất nhân.
Từ khi đất nổi sóng thần,
Hiển dương thánh đức yên quân bạo tàn (270)
Bốn phương thành vững dân an,
Giặc xưa lòng núi đáy hang ẩn mình.
Như sương tan dưới bình minh,
Trừ gian cứ việc gia hình thẳng tay.
Huyện đường buổi sáng hôm nay,
Loạn quân có một tên này- vì đâu.
Trơ trơ lưng thẳng – nghênh đầu,
Rằng: “Tà, chính- để mai sau sẽ bàn”.
Sau lưng đeo một cây đàn,
Dường như kỷ vật còn mang bên người (280)
Nói rồi, miệng ứa máu tươi,
Mắt trừng uất khí, gã cười như điên.
Khiến người nghe rỡn ốc lên,
Cười xong thì xác đổ liền- Kiên trung
Rõ là cái chết anh hùng,
Khiến lòng ta mãi vô cùng xót xa.
-oOo-
Kiều nghe rời rã tay hoa,
Rưng rưng đặt chiếc tì bà cảm thương.
Nàng thưa: “Quả chuyện lạ thường,
Khác chi da ngưa sa trường bọc thây.(290)
Những trang nghĩa sĩ xưa nay,
Ngại gì sanh tử chuyển xoay bụi hồng.
Rượu thề bát máu pha chung,
Thì trăm năm nguyện tấm lòng trăng soi.
Đàn kia xin thử lần coi,
Dám nhờ quân tử cho đòi đưa sang.
Hẳn nơi động biếc lau vàng,
Tơ đàn ai đó còn vang vọng lời.
Gật đầu, chuyện dễ như chơi,
Nữa đây ta sẽ sai người đem dâng.(300)
-oOo-
Chuông sương ngân vẵng mấy tầng,
Gió lay dầu dãi một vầng hoa hương.
Tiển chàng cỏ lục vườn sương,
Sao bay dòng tóc, lá vương dấu hài.




VI. VƯƠNG MẤY TƠ ĐỒNG.

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 03/03/2008 12:17:27 pm



VI. VƯƠNG MẤY TƠ ĐỒNG.


Bức thứ sáu: 

(Kiều mươn cây đàn xem- thì chính là cây đàn

của Từ Hải- còn mang dấu khắc bài thơ cảm tác

của nàng, nhân một đêm nghe tâm sự của Từ về
cây đàn của Trần Nguyện Mai-người yêu đã khuất
của chàng ở đất Châu Phong (Việt Nam)- và qua
cây đàn này, Từ Hải cũng được một thiền sư
dạy lẽ Vô Thanh) 



Đèn khêu cửa khép ai hoài,

Trầm thơm lò cũ, vắn dài hàng ngân.
Đàn ơi ! tiếp tục tầm Xuân,
Ngờ đâu có lúc quân quần ánh trăng.
Còn dây tơ buốt lòng băng,
Tìm đâu một cánh chim bằng đã qua (310)
Cònđây gỗ bạn trục ngà,
Theo ai sương sớm giang hà những xưa.
Còn dây dào dạc cung mưa,
Đàn ơi kim cổ không bờ cách ngăn.
Một chùm sao biếc hiên văn,
Theo tay nhật nguyệt Kiều lăn hạt sầu.
Thơ nàng- Từ khắc đôi câu,
Bây giờ dấu kiếm còn sâu bụi làn.
Nhớ người yên gió quan san,
Vó tung chuyển đất, tiếng ran lệch trời (320)
Một hôm mắt nộ khí ngời,
Ầm rung giọng sấm tột vời chí cao.
Giận phường ô lại cường hào,
Đùng đùng bão nổi, ào ào mây di.
Thanh gươm mở rộng biên thuỳ,
Yên dân riêng cõi, triều nghi rỡ ràng.
Cờ mây rợp, mặt trời vàng.
Sao rung kiếm động, rừng vang hịch truyền.
Rộng cho hoa cỏ truân chuyên,
Quân cơ trướng gấm đòi phiên dự phần.(330)
Nhớ đêm tạm gác việc quân,
Nhìn cây đàn cũ, hỏi dần nguyên do.
Tơ chùng, trục bụi không so,
Gỗ phai màu nắng- dạy cho lẽ nào ?
Dù trong muôn trận guơm đao,
Đàn theo yên ngựa, ra vào như không ?
Có chi vương mấy tơ đồng,
Gửi cây đàn cũ - lòng mong đáp đền.
-oOo-
Từ rằng: “Hận chửa nguôi quên,
Tấm thân còn đó, lời nguyền sao tan.(340)
Vời trông đất cũ mây ngàn,
Người xưa giữ nắm xương tàn khe sâu.
Anh linh hoà ánh tinh cầu,
Chừng nghe cây cỏ phai màu ngoài song.
-oOo-
Ta từ quê cũ Châu Phong,
Nếp nhà thư kiếm, Lạc Long dõi nguồn.
Xuân xanh mười tám triêu dương,
Thánh hiền chí vững, cung gươm tài lừng.
Sơn hà- một đẫy sau lưng,
Quyết thanh nội loạn, quyết trừng ngoại xâm (350)
Lửa hờn rèn chí nung tâm,
Anh em tìm chốn sơn lâm tựa mình.
Cõi biên vùng vẫy thân kình,
Cờ toan mở gió triều đình một phương.
Luỹ đồn rải rác non sương,
Chiêu binh nghĩa dũng, liệu đường tiến quân.
-oOo-
Duyên trời gặp một giai nhân,
Cũng dòng thanh khí là Trần Nguyện Mai.
Chí nàng toan mở cõi ngoài,
Đèn chong gối sách, gươm mài ánh sao ? (360)
Dặm hồng vó bụi tung cao,
Tóc xanh mây hạ, má đào hoa ban.
Nặng vì Dân- Nước lo toan,
Lược Thao cùng với Thơ, Đàn sánh đôi.
Khi ngày điều trận ven đồi,
Khi đêm xướng hoạ, bồi hồi cầm thanh.
Hai ta mở cõi dựng thành,
Lòng người những muốn, trời xanh chẳng chiều.
Một phen binh giáp tiêu điều,
Vó bay theo gió, nhựa liều dặm băng.(370)
Giặc như lớp lớp mây giăng,
Phá tan đồn trại, san bằng luỹ tre.
Gươm vung- sấm giật , chớp loè,
Hết xuyên bão nổi, lại đè sóng cao.
Song song gái kiệt trai hào,
Rừng gươm tên gió ra vào hai ta.
Mở đường máu quyết thoát ra,
Gió tan, hẹn dấy phong ba lại ngày.
Vó tung vượt mấy trùng vây,
Máu loang chân ngựa, non thây chật đồng.(380)
Cánh chim chưa thoát khỏi lồng,
Ngại ta chia trí, bận lòng ái ân.
Trao đàn lại, giữa vòng quân,
Vực sâu gieo nhẹ tấm thân tự tồn.
Sói lang còn ngẩn ngơ hồn,
Xuyên mây tiếng thét dập dồn giặc lui.
Dựng bờm ngựa cũng bừng vui,
Ầm ầm gió lớn cuộn vùi cỏ khô.
Núi giàn thế hiểm lô xô,
Một thân ngựa đạp trận đồ mà ra (390)
-oOo-
Yên dừng biên giới ngả ba,
Thanh gươm bốn biển không nhà- về đâu ?
Năm ngàn nghĩa sĩ lạc nhau,
Tình duyên thoảng đã qua cầu gió bay.
Bốn phương biêng biếc ngàn mây,
Dường như thừa một thân này chẳng dung !
Nửa toan trở kiếm tranh hùng,
Nửa toan tìm chốn núi rừng tụ quân.
Cây đàn-trên ngựa phân vân,
Bốn dây tay chợt buông ngân tiếng hờn (400)
Tiếng chi thác đổ mây vờn,
Chừng nghe kiếm gãy xanh rờn lửa reo.
Tiếng chi suối le tuôn theo,
Chừng nghe sương tụ, gió heo hút trời.
Chợt lưng no hiện bóng người,
Tay nương thiền trượng, tới nơi, giật mình.
Thương nàng vì nước hi sinh,
Ta đang thiếp mệt, tâm tình nát tan.
Nhà sư cất tiếng hỏi han:
“Ai kia ôm mối đoạn tràng đi đâu?”(410)
Vừa nghe như tỉnh lòng sầu,
Xuống yên thi lễ, cúi đầu tỏ thưa.
Thiền sư cười đáp: “Ta chờ,
Đã lâu, mới vẳng một tơ não nùng.
Khác gì trống nổi trăng rung,
Khác gì nhỏ lệ anh hùng dười sao.
Chí người như cánh chim cao,
Lạ thay ! Lòng lại giam vào hữu thanh
Cuộc đời- sương thoảng, mây nhanh,
Có Không- hạt móc đầu cành nhẹ rơi.
Bao nhiêu đương thức loài người,
Che đi nguyên táng toả ngời tự thân.
Muốn xoay chuyển lại cuộc trần,
Phải đồng sức mạnh toàn dân vẫy vùng.
Tay kia chẳng lướt năm cung,
Cho dâu biển trổ muôn trùng trái hoa.
Diệu hành - là tiếng Không Ta,
Không thanh âm ấy mới là âm thanh .
Dậy rồi, vóc hạc bay nhanh,
Viền trăng vô tướng đầu cành trượng treo. (430)
Lòng ta gió bão tan theo,
Mây hồng phất phới trên đèo hào quang.
Yên sương buộc chặt cây đàn,
Hai mươi năm lẻ chưa tan lời nào.
Tiếng thầm giục cánh chim cao,
Ngựa phai sắc gió, chiến bào nhạt mây.
Cây đàn - chàng mới hỏi đây,
Là di chúc - lẫn lời Thầy còn vương.
-oOo-
Một mai ta bỏ sa trường
Sẽ đưa Kiều lại cố hương lần hồi.(440)
Bên dòng suối ngắm hoa trôi,
Cất gian lều nhỏ lưng đồi cỏ may.
Xuống đồng tát cá , bới khoai,
Vào no bẫy thú, nằm dài nghe chim.
Anh em nhớ đến nhau tìm,
Qua nương rẫy, một giỏ sim làm quà.
Hứng nước suối thết bình trà,
Hái bầu nấu bát canh hoa cuời khàn.
Vuốt râu, viết sách, hưởng nhàn,
Then mây khoá một niết bàn bên khe.
Mai sau viễn khách nào nghe,
Tìm thăm hang đá hỏi bè mây xanh.
Như Người phá giặc tan tành,
Vó mây Phù Đổng, công danh bọt bèo.
Vươn vai như biển dâng triều,
Đường về chỉ thấy sương chiều non giăng.
Kiều thưa: “Rõ tấm can tràng,
Rồng thiêng ẩn cánh, phương hoàng bạt mây.
Phận hoa đâu dám tưởng ngày,
Song song đôi ngựa cỏ cây tần ngần.”
Non cao mới biết trăng ngần,
Đớn đau mới rõ dấu chân phi thường.
-oOo-
Trò đời tranh bá đồ vương,
Ngàn năm phơi trắng bãi xương lập loè.
Lời than, tiếng khóc còn nghe,
Gầm trời đâu chẳng khói che mịt mù.
Có chăng, goá phụ phòng thu,
Mạch sầu ngâm kỹ tiếng ru truyền đời.
Từ nghe mắt thẵm trùng khơi,
Sương un chén ngọc, tay ngời ánh trăng.(470)
Nhìn cây đàn lạnh tơ băng,
Tóc bay mờ nhạt, sông Hằng sao thưa.
Cảm trong nữ tướng rừng xưa,
Tay Kiều hạ mấy dòng thơ lệ tràn.
Từ đem thích dưới thành đàn,
Bây giờ dấu cũ trơ làn sương phai.
-oOo-
Đêm nay Kiều lại u hoài,
Lệ rơi đàn- bật dây ai não nùng.
Tiếng nào heo hút âm cung,
Ngoài song lãng đãng một vùng cỏ hoa (480)
Hiển linh trong gơn âm ba,
Thành đàn cài nửa trăng tà nghiêng nghiêng.
Vai Kiều óng giải mây huyền,
Vuốt ve đâu gơn gió thiêng thoảng về.
Sao trời- ngỡ ánh hoa lê,
Dường như ánh mắt xưa kề mênh mông .
-oOo-
Lại đêm trướng gấm trầm xông,
Từ nghe trinh bạch nỗi lòng nghĩa binh.
Hồ tổng đốc- tướng triều đình,
Bỏ phường ô lại, chiêu binh hiền tài.(490)
Lại đem danh lợi chiêu bài,
Lại đem tông tích “rợ ngoài” truyền rao.
Còn đang vá giáp, mài đao,
Binh cơ trễ nải, anh hào phân vân.
Nửa vì đại nghĩa có nhân,
Nửa e ngoại chủng, có phần hiềm nghi.
Thì thầm kẻ ở người đi,
Giáo gươm lơ đễnh, quân kỳ ngả nghiêng.
Lấy gì gióng trống thúc chiêng,
Gài ta vào thế tư riêng rõ ràng. (500)
Từ ngồi nung nấu tâm can,
Tuỳ cơ liệu phải trá hàng một phen.
Chờ khi giáp mặt hai bên,
Rút đao bắt tướng thế lên mấy hồi.
Chỉ còn ứng kế này thôi
Con tin khi nắm chắc rồi- sẽ hay.
Bằng không- ngọt một đường bay.
Dù xa trăm thước đao này trệch đâu.
Rồi ta tuẩn tử qua cầu,
Cơ đồ trả lại cho mầu cỏ non. (510)
Được thua một trận cười ròn,
Cái chi còn lại- hoạ còn văn chương.
Tội Kiều trải lắm đau thương,
Chẳng ơn xuân sắc lại chường gió Đông.
Cha già mẹ yếu ngùi trông,
Buồm đi cuối biển, bến mong sum vầy. 


Hình ảnh

Nghiêng nghiêng vò rượu nốc say,

Chống gươm sáu thước, dựng mày cọp thiêng.

-oOo-

Kiều thưa: “Chàng có chi phiền,
Phen này cho thiếp trận tiền được theo”(520)

Mắt Từ như nửa trăng treo,
Rằng nơ bãi chiếm lắm điều gian nguy.
Việc quân- Kỳ, Chính còn tuỳ,
Thân ta muôn trận đã lì kiếm cung.
Ngại khi gươm giáo chập chùng,
Đất bằng kia lỡ bỗng vung sóng cồn.
Thôi ! Nàng mắt khải hoàn môn,
Ngồi pha trà đợi, vân bôn ngựa về.
Qua sông chỉ ngọn kiếm thề,
Không yên thế giặc không về qua sông. (530)
Môi kia ai đậm cánh hồng,
Lầu xuân chờ nở một bông hướng vời.
Ta đi trong áng mây đời,
Tung cờ vĩnh cữu chơi vơi lá sầu.
Ngọn cờ ảo hoá thiên thâu,
Cuối đường vĩnh tuyệt rầu rầu cỏ xanh.
Lối ra- trống đổ tràng thành,
Hoa Thu trổ ngát, tinh anh dấu về.
Trái tim dũng sĩ không hề,
Cần chi một tấm mộ bia dựng buồn (540)
Biết nhau- hạt lệ ngùi tuôn,
Cũng là rửa sạch đoạn trường gió bay.
Từ, Sinh- như áo đổi thay,
Lửa thiêng trao những bàn tay- chẳng tàn.
-oOo-
Rồi Từ - như ánh sao tan
Đêm nay loé giữa lòng đàn nao nao.
Trăng nghiêng nhớ mắt xưa nào,
Non xa còn khoác chiến bào nhạt sương.
Thanh trầm, khơi nổi dòng thương,
Giàn Đông hoa đã ảnh hường sắc mây.



Phạm Thiên Thư

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét