Thử so sánh Thanh Tâm Tài Nhân với đại thi hào Nguyễn Du
Tác giả: Bắc Giang
Trong văn chương Việt Nam nói đến truyện Kiều không phải là một điều mới mẻ hay xa l ạ, truyện Kiều đã ăn sâu vào tiềm thức người dân Việt không khác gì ca dao, tục ngữ .
M ọi người từ giới thức giả cho đến đám bình dân ai ai cũng biết, cũng nhớ mộ t vài câu không ít thì nhi ều, kể cả dân quê ta từ các ôngï già bà lão ở những miền đồ i núi xa xôi hẻo lánh cho đến những người chưa từng cắp sách đến trường, không hề biết đọc biết viết, cũng truyền nhau, cũng thuộc lòng một vài câu Kiều, cũng biết ê a:
Trăm năm trong cõi ngườ i ta
Chữ tài chữ mệ nh khéo là ghét nhau
Thậm chí trong lúc ru em, hát hò ở những hội hè đình đám, bạn bè họp mặ t, chén chú chén anh, truy ện Kiều cũng được mang ra nào là lẩy Kiều, bói Kiều, đố Kiều, giải Kiề u, tuồng hát Kiều, lập hội Kiều, kỷ niệm Kiều, có nhiều người thuộc Kiều đến nỗi có thể đọ c
thu ộc lòng hơn ba ngàn câu một cách dễ dàng không vấp váp. Truyện Kiều cho đế n nay không còn b ị giới hạn trong phạm vi giải trí, văn chương mà còn là vấn đề văn hóa của m ột dân tộc. Truyện Kiều không những chỉ phổ biến ở nước ta mà lại còn được dị ch ra
hàng ch ục thứ tiếng khiến nhiều người ngoại quốc khi đọc qua cũng phải thán phụ c, khen th ầm. Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của nó nhưng chúng ta ai ai cũng biết Nguyễ n Du viết truyện Kiều dựa vào một trong hai tác phẩm của Trung Hoa sau đ ây:
1/ Nguy ễn Du tình cờ đọc một truyện ngắn có tên Phong Tình Cổ Lục rút trong Ngu Sơ Tân Chí c ủa Dư Hoài mà viết ra truyện Kiều hay Đoạn Trường Tân Thanh bằng thể thơ l ục bát, Đây là một truyện ngắn chỉ có khoảng hơn kém 1100 chữ, viết bằng văn xuôi, kể l ại cuộc đời phong ba của nàng Vương Thúy Kiều, nên ngay trong hai câu mở đầu cụ đ ã xác nh ận nguồn gốc đ ó:
Cảo thơm lần giở trước đèn
“Phong tình c ổ lục” còn truyền sử xanh
Nh ưng trong Phong Tình Cổ Lục, Dư Hoài chỉ viết đến đoạn Thúy Kiều tự vẫ n trên sông Ti ền Đường, hơn nữa Thúy Kiều của Dư Hoài chỉ là cô bé hát dạo tầm thường gặp mộ t chàng hào hoa ăn chơi cho đến khi giặc giã nổi lên mới kết duyên cùng tên giặc bể Từ H ả i.
2/ Sau khi đọc kỹ Bản Phường của Phạm Quý Thích và Bản Kinh của vua Dực Tông, cụ Tr ần Trọng Kim và Bùi Kỷ đã cho rằng Nguyễn Du nhân đọc một tiểu thuyết củ a Thanh Tâm Tài Nhân là Kim Vân Ki ều truyện, kể về một cô bé mang tên Vương Thúy Kiề u tài s ắc vẹn toàn nhưng gian truân khổ sở, dựa vào quyển sách này mà tiên sinh viết ra Đoạ n Tr ường Tân Thanh, ta thấy có chữ “ Tân” có nghĩa là “mới” để so sánh với bản “cũ” củ a Thanh Tâm Tài Nhân.
Nhưng cũng còn nhiều giả thuyết khác cho rằng Kim Vân Kiều truyện củ a Thanh Tâm Tài Nhân c ũng chỉ kể lại từ một câu chuyện có thật do Mao Khôn, một người thuộc quân đội của Hồ Tôn Hiến ghi lại trong sách “Ký tiễu trừ Từ Hải bản mạt”. Câu chuyện này về sau c ũng được nhiều người kể lại tuy có nhiều điểm khác nhau nhưng đại loại đều tương tự thí d ụ như Lý Thúy Kiều truyện của Đới Sĩ Lâm, Kim Vân Kiều truyện của Dư Hoài v..v.
H ầu hết các sách giáo khoa của chúng ta đều cho rằng giả thuyết của cụ Trần Trọ ng Kim và Bùi K ỷ có nhiều bằng chứng xác đáng, có thể chấp nhận được. Vậy ta thử so sánh mộ t vài đoạn trong Kim Vân Kiều truyện và ĐTTT xem vì lý do nào tác phẩm này lại nổi tiếng, đượ c nhiều người ưa chuộng và tác phẩm nào mới thực sự là tác phẩm đưa truyện Kiề u lên t ột đỉnh của danh vọ ng.
N ếu trong văn chương Việt Nam, ĐTTT của Nguyễn Du là một kiệ t tác, làm say mê hàng tri ệu triệu người từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, thì trong văn chương Trung Hoa hầu như không m ấy ai biết tới Kim Vân Kiều truyện và Thanh Tâm Tài Nhân cũng chỉ là mộ t nhà văn trung bình bởi vì lời văn của Thanh Tâm Tài Nhân rất thô sơ, tầm thường, không gây đượ c cảm hứng cho người đọc. Ta hãy thử mở Kim Vân Kiều truyện để xem lối hành vă n của Thanh Tâm Tài Nhân khi giới thiệu sắc đẹp hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều: (dị ch theo b ản số A.593 E.F.E.O).
“Con gái lớn là Thúy Kiều, con gái nhỏ là Thúy Vân, sinh ra đã có vẻ đẹp dễ thươ ng, tính nết điềm đạm. Cả hai người đều thông thạo thơ phú”.
Chúng ta th ấy phần mở đầu thật đột ngột, tầm thường, lối hành văn rất thô sơ, ấu trĩ , câu văn vừa nhát gừng, vừa quê mùa như là một thể loại văn nói hơn là văn viết, nói thì nói sao c ũng được miễn là người đối thoại có thể hiểu, nhưng viết thì đòi hỏi phả i ra câu, ra cú có đầy đủ chủ từ, động từ, tĩnh từ, văn phạm phải nghiêm chỉnh, phải có nhữ ng câu chuy ển tiếp, tác giả dùng quá nhiều dấu chấm, dấu phẩy làm ý tưởng cũng như lời vă n không còn liên t ục, bị ngắt quãng từng đoạn, nên văn phong rời rạc. Chỉ mới đọc qua đ oạn ngắn mở đầu người đọc đoán rằng đây có thể do một cậu học trò nhà quê nào đ ó t ập tễnh viết văn chứ không phải của một văn sĩ, đừng nói đến một nhà văn nổi tiế ng.
Trong khi cùng m ột ý đó, để giới thiệu sắc đẹp hai chị em Thúy Vân, Thuý Kiều, cụ Tiên Đ iền đã dùng bốn câu lục bát êm ái nhẹ nhàng mà lại bóng bẩy, nồng nàn:
Đầ u lòng hai ả Tố Nga
Thúy Ki ều là chị , em là Thúy Vân
Mai c ốt cách tuyết tinh thầ n
M ỗi người một vẻ mười phân vẹn mườ i
B ốn câu giới thiệu này thật tuyệt vời, thật linh động, thật quyến rũ. Giả thử chúng ta chư a h ề gặp mặt hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, nhưng chỉ mới đọc qua đoạn tả trên cũ ng th ấy đam mê, hào hứng. Cụ Tiên Điền đã dùng những chữ mà không một nhà thơ nào có th ể tìm ra được chữ khác hay hơn, trong sáng hơn như chữ “Tố Nga” để tả một người đẹ p như chị Hằng Nga trên cung quảng, cốt cách quí phái sang trọng như mai vàng ngày t ết, tinh thần thanh khiết như tuyết trắng trên đồi. Mỗi người cao sang lộng lẫ y khác nhau nh ư những Tiên Nga giáng thế. Cách dùng chữ, dùng âm điệu của cụ Tiên Điền rấ t nên th ơ, từng câu, từng vần vang dội như nhạc sĩ sử dụng cung bậc của âm thanh khi trầ m khi b ổng để lôi cuốn người nghe, tạo cho người nghe một cả m giác say mê, thanh thoát, nh ẹ nhàng, bay bổ ng ..
B ước sang phần tả tài sắc của hai ả Tố Nga này, Thanh Tâm Tài Nhân viế t:
“Duy Thúy Ki ều vốn người phong lưu yểu điệu, tính tình hào hoa và thích âm luật rất giỏi đ àn hồ cầm. Thúy Vân vốn tánh điềm đạm, thấy Thúy Kiều ham chơi hồ cầm, lúc nhàn rỗ i th ường can gián rằng: “Âm nhạc không phải việc của người con gái chốn khuê môn, nế u ng ười ngoài nghe thấy sẽ không tiện”. Thúy Kiều cũng biết vậy nhưng không theo, thườ ng làm bài ca “B ạc mệnh oán” đem phổ vào hồ cầm, âm điệu rất ai oán khiến ai nghe thấ y c ũng phải rơi lệ ”.
L ối diễn tả sơ sài, nhạt nhẽo, câu văn quê mùa, cục mịch, làm người đọc không tưở ng t ượng ra được cái tài, cái sắc của cả hai chị em, diễn tả một trang tuyệt sắc không phả i ch ỉ nói cô ta đẹp đã là đủ, diễn tả một người có tài không thể chỉ nói cô ấy biết đánh đ àn h ồ cầm, biết chơi âm nhạc, làm cho người nghe phải rơi lệ là đủ cho ngườiø đọ c thán ph ục tài năng của Thúy Kiều! Văn chương nếu chỉ giản dị như vậy thì ai ai cũng có thể trở thành v ăn sĩ một cách dễ dàng! Khác xa với Nguyễn Du khi nói về tài đức củ a Thúy Vân Thúy Ki ều thì dùng thể so sánh với mai, với tuyết, với trăng rằm như “mai cốt cách, tuyế t tinh th ần” hoặc “khuôn trăng dầy đặn”, “mây thua nước tóc, tuyết nhường mầu da”, chẳ ng c ần phải nói hai nàng là những người con gái đẹp mà chỉ cần biết cái đẹp ấy rõ ràng đ ã làm cho:
Hoa ghen thua th ắm, liễu hờ n kém xanh
Vi ết văn, làm thơ là một thiên khiếu, viết làm sao để lôi cuốn người đọc từ trang này sang trang khác,l ời văn nhẹ nhàng thanh thoát, tình tiết éo le, bố cục vững chắ c, làm cho câu chuyện càng ngày càng hấp dẫn là cái tài của nhà văn, nhà thơ. Thật khác xa, khi m ở Đ TTT ta sẽ thấy cái tài của đại thi hào Nguyễu Du, để tả tài sắc của hai chị em Kiều, trướ c h ết, cụ tả tài sắc của Thúy Vân trước rồi sau đó đến Thúy Kiều làm nổi bật nhân vật chính, s ắc sảo hơn, mặn mà hơn, còn phong cách của Thúy Vân thì đoan trang, dị u dàng, phúc h ậu, tươi như hoa nở, ngọt ngào như dòng suối trong khi Thúy Kiều lạ i thông minh hơn, một hai nghiêng nước nghiêng thành, sắc đã là vậy, tài còn gấp đôi. Thêm vào đó dù với lời thơ trong sáng, phong phú, chữ dùng chính xác, bay bướm làm cho người đọ c có cảm tưởng được xem một bức tranh của một danh họa vẽ hai giai nhân liễu yếu đào tơ , cành vàng lá ng ọc. Lối diễn tả của Nguyễn Du làm cho người đọc như muốn dừng lại ở từng chữ, từng câu đang nhẩy múa trước mắt mà hưởng trọn vẹn cái đẹp, cái tài của trang quốc sắc thiên hương. Trong đoạn diễn tả cái đẹp của Thúy Vân, Nguyễ n Du dùng nh ững câu nhẹ nhàng trong sáng như “trang trọng khác vời”, “khuôn trăng đầy đặn” “ngọ c th ốt đoan trang” “mây thua nước tóc” “tuyết nhường mầu da”, làm cho người đọc như lạ c vào cõi tiên v ới người trinh nữ trong trắng, trinh anh. Còn về tài sắc của Thúy Kiề u, nhân v ật chính trong truyện mà tác giả muốn nhấn mạnh thì Nguyễn Du dùng thể so sánh như m ột họa sĩ dùng mầu sắc đối chọi làm nổi bật hầu người thưởng lãm thấy được cái mịn màng, đoan trang, thơ ngây của một cô gái đang tuổi dậy thì. Chúng ta hãy dừng chân lại ở từng cung điệu, từng nét chấm phá đang hòa theo nhạc khúc nghê thường để thấy cái đẹ p, cái quyến rũ của hai trang tuyệt sắ c giai nhân này:
Vân xem trang tr ọng khác vờ i (19)
Khuôn tr ăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường mầu da
Ki ều càng sắc sảo mặ n mà
So b ề tài sắc lại là phần hơ n
Làn thuy th ủy nét xuân sơ n
Hoa ghen thua th ắm liễu hờ n kém xanh
M ột hai nghiêng nướ c nghiêng thành
S ắc đành đòi một, tài đành họ a hai
Ta để ý thấy Nguyễn Du dùng những câu rất bóng bẩy như “sắc sảo mặ ïn mà” “làn thu th ủy nét xuân sơn” “hoa ghen thua thắm” “liễu hờm kém xanh” “Nghiêng nướ c, nghiêng thành” th ật tượng thanh, tượng hình, dễ lôi cuốn người đọc, làm cho người đọc như chìm đắ m trong cái đẹp, cái thanh tao của vũ trụ, của thiên nhiên, của con người. Khác xa lố i dùng ch ữ của Thanh Tâm Tài Nhân quê mùa, mộc mạ c ..
Qua m ột đoạn khác, ta hãy xem Thanh Tâm Tài Nhân tả cảnh từ biệt giữa Kim, Kiề u trong
l ần hội ngộ đầu tiên nhân ngày hộ i Thanh minh:
“Kim Tr ọng ngây ngất cả người, xiêu xiêu cả tinh thần, bụng bảo dạ: “Thế này thì mình đế n tương tư chết mất” rồi chàng lẩm bẩm tự thề không lấy được Thúy Kiều thì suốt đờ i không l ấy ai nữa. Vì vướng có Vương Quan ở đấy, không tiện nán lại ở lâu, Kim Trọng đ ành phải nói qua loa rồi cáo từ lui gót.
V ương viên ngoại cũng sai người đến đón hai nàng lên kiệ u.”
Chàng Kim này qu ả thật táo bạo, mới gặp nhau lần đầu đã bị cú sét ái tình đ ánh trúng không còn gi ẫy giụa gì được, thề thốt lung tung, giả thử nếu không có Vương Quan ở đ ó dám chàng ăn tươi nuốt sống con gái nhà người ta!! Thanh Tâm Tài Nhân dùng lời vă n tr ắng trợn, thô lỗ, nếu không muốn nói là sống sượ ng!
Cùng c ảnh giã biệt ấy, cụ Tiên Điền dùng tám câu lục bát nhẹ nhàng, kín đ áo mà làm cho c ảnh vật bên ngoài cũng phải mủi lòng buồ n bã:
Ng ười quốc sắc, kẻ thiên hươ ng
Ng ười quốc sắc, kẻ thiên hươ ng
Tình trong nh ư đã, mặ t ngoài còn e
Ch ập chờn cơn tỉnh, cơ n mê
R ốn ngồi chẳng tiện, rứt về chỉ n khôn
Bóng tà nh ư giục cơn buồ n
Khách đà lên ngựa, ngườ i còn ngó theo
D ưới cầu nước chả y trong veo
Bên c ầu tơ liễu bóng chiều thướ t tha.
Tâm s ự “kẻ ở người đi” thật là buồn bã, giờ chia tay thật não nùng cho những kẻ mớ i yêu nhau, m ặc dù đôi uyên ương còn đang đắm chìm trong cơn mê muội nhưng vẫn còn biế t gi ữ lễ giáo, nho phong “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”, để rồi khi giờ chia tay đã đ iểm, hai kẻ yêu nhau như còn trong cơn nửa tỉnh nửa mê, còn vấn vương, luyến tiế c:
Khách đà lên ngựa, ngườ i còn ngó theo.
Khách đà lên ngựa, ngườ i còn ngó theo.
Bu ổi chia ly nào cũng vấn vương, cũng buồn bã,
l ối diễn tả của cụ Nguyễn Du đ âu có thua
gì l ỗi diễn tả của Đặng Trần Côn trong Chinh Phụ Ngâm Khúc ở đoạn giã biệt củ a chàng
tu ổi trẻ với người chinh phụ trên cầu sông Vỵ :
Nh ủ rồi tay lại trao liề n
B ước đi một bước lạ i vin áo chàng
Hay là:
Cùng trông l ại mà cùng chẳng thấ y
Th ấy xanh xanh những mấ y ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngát m ột mầ u
Lòng chàng ý thi ếp ai sầu hơ n ai
Bây gi ờ chúng ta hãy lần giở những trang cuối cùng của Kim Vân Kiều truyện, sau mườ i l ăm năm lưu lạc, biết bao thương nhớ, khổ nhục, đắng cay để xem Thanh Tââm Tài Nhân t ả cảnh Kim Kiều tái ngộ thật sỗ sàng như sau:
“Thúy Ki ều đề thơ xong, trao cho Kim Trọng, nói: đây là tình yêu em tặ ng anh, xin anh vui nh ận. Kim Trọng đọc thơ, nói: đây thật là tấm tình chí thiết, chân thật và trung trinh. Anh đ âu phải chỉ ưa thích mối tình hèn yếu, xin em hãy quên thứ tình đó. Nghe vậy Thúy Kiề u sung s ướng. Thế rồi đôi tình nhân vào giường khép màn: muôn vàn khoái lạc thỏ a thuê, ch ỉ trừ một việc mây mưa cuố i cùng.”
Th ật là kinh hoàng, thật là thô lỗ, tôi nghĩ Thanh Tâm Tài Nhân hơi quá tay, người đọ c có c ảm tưởng đang đọc đoạn trích trong một “dâm thư” hơn là đọc một tác phẩm vă n ch ương có giá trị. Thực tình ông muốn tả một cặp trai gái bình thường hay chỉ muốn tả c ảnh phòng the của một ..Liễu Hạ Huệ!! Làm sao có được cảnh: “Thế rồi đ ôi tình nhân vào gi ường khép màn, muôn vàn khoái lạc thỏa thuê, chỉ trừ việc mây mưa cuố i
cùng???”, mà dù có tr ừ việc mây mưa ấy đi chăng nữa, thiết tưởng tác giả cũ ng không nên nói ra, nói ra ch ẳng nâng cao được giá trị đạo đức của đôi trai tài gái sắc, mà chỉ làm cho ng ười đọc ghê sợ , kinh hoàng!!!
C ũng một ý tưởng ấy, ta hãy so sánh với những vần thơ trong sáng sau đây của cụ Tiên Đ iề n:
M ấy lời tâm phúc ruộ t già
T ương tri đường ấy mới là tươ ng tri
Ch ở che đùm bọc thiế u gì
Tr ăm năm danh tiết cũng vì đ êm nay
Tho ắt thôi tay lại cầ m tay
Càng yêu vì n ế t, càng say vì tình
Thêm n ến giá, nối hươ ng bình
Cùng nhau l ại chúc chén quỳ nh giao hoan.
Ta th ấy cùng tả một cảnh cái đêm hôm ấy sau mười lăm năm lưu lạc mà cụ Tiên Điền lạ i khéo léo, nh ẹ nhàng, thơ mộng không trắng trợn, không lộ liễu như Thanh Tâm Tài Nhân!!
Trong v ăn xuôi cũng như văn vần (thơ) cái khó nhất của người viết là phần đối thoại, đố i tho ại phải làm sao ngắn gọn, nhưng đủ diễn tả hết ý, không cầu kỳ, không khoa trươ ng. Ta hãy l ắng nghe cụ Nguyễn Du viết phần đối thoại của hai nhân vật Kim Trọ ng và Thúy Ki ều trong lúc Kim Kiều hội ngộ (từ câu 305-358). Đoạn này diễn tả cảnh Kim Trọ ng sau l ần gặp gỡ Thúy Kiều vào ngày hội Thanh Minh trở về bị tương tư rồi tìm cách thuê că n phòng c ủa thương gia Ngô Việt ở gần nhà Thúy Kiề u:
Có cây, có đá sẵ n sàng.
Có hiên Lãm Thúy, nét vàng ch ư a phai
Ngày ngày chàng ch ờ mong được gặïp Thúy Kiều cho thỏa lòng mong nhớ :
T ường đông ghé mắt ngày ngày hằ ng trông.
Tình c ờ một hôm nhìn ra ngoài sân thấy một bóng hồng thướt tha, chàng Kim vộ i vàng ch ạy ra thì nàng đã biến mất nhưng còn thoang thoảng đâu đó hương thơm nồ ng nàn:
H ương còn thơm nức, người đà vắ ng tanh
Thì hóa ra nàng Ki ều đã lẫn trốn đâu đó và cố tình để lại chiế c trâm vàng:
Trên đào nhác thấy mộ t cành kim thoa
Bi ết Thúy Kiều còn ở đâu đó vì còn e lệ chưa dám ra mặt, chàng Kim liền ướm hỏ i:
“Thoa này b ắt được như không (305)
Bi ết đâu hợp phố mà mong châu về ?”
Ý chàng mu ốn trả lại cây trâm vàng mà không biết ai là chủ, thì bỗng chợt bên kia bứ c t ường có tiếng trả lờ i :
“ Ơn lòng quân tử sá gì của rơ i (308)
Chi ếc thoa nào của mấy mươ i
Mà lòng tr ọng nghĩa khinh tài xiết bao!”
Đ ây là cơ hội ngàn vàng của một chàng trai si tình, ta hãy theo dõi chàng Kim tán tỉ nh nàng Ki ều cùng những lời từ chối khéo léo của một tiểu thư khuê các:
“Ti ện đây xin một hai điều (329)
Đ ài gương soi đến dấu bèo cho chă ng?”
Ng ần ngừ nàng mới thưa rằ ng:
“Thói nhà b ăng tuyết, chất hằng phỉ phong
Dù khi lá th ắm chỉ hồ ng
Nên ch ăng thì cũng tại lòng mẹ cha
N ặng lòng xót liễ u vì hoa
Tr ẻ thơ đã biết đâu mà dám thư a”
Nàng Ki ều là một con nhà trâm anh thế phiệt, e lệ thẹn thùng, tuy trong bụng đã bằ ng lòng nh ưng mặt ngoài còn ngại ngùng chờ quyết định của mẹ cha, trước sự tấn công vũ bão c ủa chàng Kim nàng như bị khuất phục:
R ằng: “Trong buổi mới lạ lùng (349)
N ểà lòng có lẽ cầm lòng cho đang
Đ ã lòng quân tử đ a mang
M ột lời vâng tạc, đá vàng thủ y chung!”
Nghe xong nh ững câu gắn bó, đa tình của nàng Kiều, chàng Kim lòng như mở hội vộ i
vàng đề nghị trao đổi tín vật làm tin:
Đượ c lời như mở tấ m lòng (353)
Gi ở kim thoa với khăn hồ ng trao tay
Và cu ối cùng chúng ta hãy yên lặng để thưởng thức giây phút nghiêm trọng củ a tình yêu, c ủa những thề nguyền gắn bó, của những cái gì thiêng liêng nhất trong cuộc đời nhữ ng k ẻ yêu nhau:
R ằng: “Trăm năm cũng từ đ ây (355)
C ủa tin gọi mộ t chút này làm ghi!”
S ẵn tay bả, quạ t hoa quì
V ới cành thoa ấy tức thì đổ i trao (358)
Ph ải thú thật, ta không thể tìm thấy một cuộc tình nào lãng mạn hơn, tình tứ hơn, đ am mê h ơn mà tất cả lại được đóng khung trong vòng lễ giáo Khổng Mạnh, không sỗ sàng, không b ỡn cợt, không suồng sã, không kịch cỡm như đoạn văn sau đây củ a Thanh Tâm Tài Nhân:
- “Cành ph ương thoa này không biết con gái nhà ai đánh rơi để mà đem trả. Lạ i không th ấy có người nào cả, ta tìm mà chẳng thấy có lối nào. Làm sao được, làm sao đượ c?
Chàng nói to hai l ần như thế, bỗng nghe ở đầu tường có tiếng con gái se sẽ đáp rằ ng:
- Thoa ấy là của cháu đánh mất, người quân tử đã có lòng tốt như thế, thì xin trả lạ i cho cháu. Kim Tr ọng vội đáp rằ ng:
-Té ra là c ủa tiểu thư ở hàng xóm đấy à? Lẽ tôi phải trả chứ .
- Chàng mà tr ả lại cho thì cảm bộ i vô cùng.
- Đã là của tiểu thư thì tôi đâu dám không trả, song tiểu thư phải xem cho kỹ mới khỏi lầ m. Cô kia ở bên kia tường lạ i nói:
- Thoa c ủa cháu là thoa kim phụng trên có ba viên bảo thạch, chín hạ t trân châu, không cần xem nữa chính của cháu rồ i.
- Cô nói th ế quả không sai, lẽ tôi phải trả, nhưng cũng phải trao tay cho cô thì mới ổn chứ.
Ng ười con gái ấy nghe nói đến đó, đứng nghĩ một hồi, không biết làm sao, đành phải đứ ng lộ ra một nửa mình và ra mặt mà nhận. Kim sinh thấy chính là Thúy Kiề u, lòng m ừng hí hở n mà nói:
- Thoa này th ế ra là của Vương tiểu thư đánh mất mà tôi lại may mắn bắt được, khiế n tôi l ại nhờ nó mà thấy được phương dung, thực là hạ nh phúc quá.
Thúy Ki ều cũng biết đấy là Kim Trọng, bèn mừng thầ m mà nói:
- Chàng Kim ơi. Sao lại nói như vậy? Đó là may mắn cho em mà thoa ấy lạ i là chính anh b ắt được . Anh trả lại cho, cái cao nghĩa ấy của anh biết lấy gì mà hồi báo đượ c?
Kim sinh nói:
- Cái thoa là c ủa mấy mươi mà cần phải hồi báo? Duy từ khi tiểu sinh bắt đượ c cái thoa này ch ỉ ôm một mối khổ tâm, chẳng biết cô có thấu cho chă ng?
Thúy Ki ề u nói:
- Em m ất thoa chỉ vì ham hái hoa đào mà vướng mất có phải là hữu ý đâu? Nay anh bắt đượ c cũng là việc ngẫu nhiên, có gì mà lại khổ tâm?
Kim Tr ọ ng nói:
- Chính vì chuy ện được thoa, mất thoa đều là xuất ư vô tâm, nay nhân việc được mấ t mà bỗng gặp nhau, há chẳng phải là duyên xui khiế n hay sao?
Thúy Ki ều nghe xong bất giác má đỏ bừng, đứng một hồi không nói được, bỗng thở dài m ột tiế ng mà nói:
- Sao mà chàng đa tình thế? Song thiếp là con gái có dám tự chủ đâu. Chỉ vì chàng nặ ng vì tình, thi ếp phải nể lòng không lẽ cầm lòng cho đặng. Chàng chưa vợ, thiếp chưa chồ ng, sao chúng ta l ại không tính việc trăm năm? Song ví bằ ng nhân ái mà sinh tình, nhân tình mà l ầm lỡ, thì không phải là điều thiếp sở nguyện đ âu.
Kim sinh nói:
- Cô đã nhận cùng nhau giai lão, thì tiểu sinh cũng xin vâng theo, lẽ nào còn dám ngh ĩ đ iều bất tiếu nữa? Chỉ xin phát thệ để thỏa lòng khát mộ bấy lâu ..”
Đế n đây tôi không dám lạm bàn thêm và cũng vì muốn tôn trọ ng tính khách quan trong lúc phê bình, tôi xin m ượn lời của học giả Đào Duy Anh (Trích trong “ Khảo luận về Kim Vân Ki ề u”)
“L ời đàm thoại trong nguyên văn đã sỗ sàng mà lại dài dòng và tủn mủn quá, khiến ta lấ y làm khó ch ịu khi thấy Thúy Kiều quá dạn dĩ và có vẻ lẳng lơ, khiêu khích, và thấy cặ p trai gái này ch ỉ ưa nói lý sự vụ n.”
Qu ả thật nếu đem so sánh đoạn văn xuôi trên của Thanh Tâm Tài Nhân với những vần th ơ củ cụ Tiên Điền Nguyễn Du thì thật thua xa cả về cách hành văn, từng lời đối thoạ i cho đến giá trị văn học, giá trị đạo đức: một đằng thanh cao, tao nhã, một đằng cộc cằ n thô l ỗ; một đằng lời nói nhẹ nhàng, bóng bẩy, cao sang, một đằng quê mùa, cải lươ ng nh ư những lời đối đáp của cặp nhân tình ít học; một đằng bố cục gọn gàng, lớp lang, một đằ ng rườm rà, lủng củng. Những câu đối đáp của cụ Tiên Điền có lúc nhẹ nhàng bóng bẩy, có lúc lễ phép đoan trang, không như những lời đối đáp củ a Thanh Tâm Tài Nhân lúc l ẳng lơ, phàm tục, lúc lộ liễu, trơ tráo. Không thể một người con gái mới mười mấy tuổi đầ u con nhà gia giáo, thấm nhuần Nho học mà có thể nói được câu: “Chàng chưa vợ , thi ếp chưa chồng, sao chúng ta không tính chuyện trăm năm?”, nhất là ở thời buổi mấ y tr ăm năm về trước, năm Gia Tĩnh triều Minh (1522) rất là cổ hủ, khó khăn “Nam nữ thụ thụ bấ t thân” .
Giá tr ị của ĐTTT không phải là ở những lời ong, tiếng ve, tiếng khen, tiếng chê của những người tự nhận là nhà phê bình, nhà nghiên cứu văn học mà tự nó như một bức tranh thủ y mạc vẽ trên miếng lụa mỏng quý giá với một cặp tình nhân, một vành trăng, mộ t khóm trúc, m ột giòng suối, một cành hoa khe khẽ lung lay trước gió đã thu hút và khiêu gợi cả m xúc c ủa người đọc. Nguyễn Du không những chỉ nói lên cái đẹp của một cuộc tình đầ y sóng gió, truân chuyên mà còn đưa ra một triết lý của cuộc sống, một giá trị về luân lý đầ y
tình t ự dân tộc.
Nói tóm l ại, nếu đem so sánh tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và Đ TTT của cụ Tiên Điền thì khác xa một trời một vực cả về giá trị văn chương lẫn giá tr ị đạ o đức. Các cụ Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng kết luận ĐTTT là một dâm thư, nhiề u khi h ơi quá đáng, danh từ này đáng lẽ phải nhường lại cho Kim Vân Kiều truyện củ a Thanh Tâm Tài Nhân m ới đúng! Như chúng ta đã thấy từ nguyên bản củ a Thanh Tâm Tài Nhân mà c ụ Tiên Điền lấy ra làm thi hứng có phần còn sỗ sàng, phi đạo đức hơn nhiều.
Komatsu Kiyoshi, ng ười đã dịch ĐTTT ra Nhật ngữ từ nguyên bản Pháp văn của Nguyễ n V ăn Vĩnh đã phải công nhận: “Nguyễn Du nhân bản hơn Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễ n Du đã nêu lên tất cả các đặc tính nhân văn: trung thành, kính tâm, hiế u tâm, ái tâm và trinh tháo” (Kim Van Kieou, Tokyo: Toho, 1943, trang 341). Rene Crayssac, m ộ t trong nhi ều người đã phiên dịch ĐTTT ra Pháp ngữ cũng đã viết: “Áng thơ kiệt tác của Nguyễ n Du có th ể so sánh mà không sợ kém văn chương kiệt tác của bất cứ thời nào, nướ c
nào” (Kim vân Ki ều, Rene Crayssac, trang LXX) . Hơn thế nữa, Gs Hà Như Chi đã nhận đị nh khách quan như sau: “Cụ Nguyễn Du đã giữ y nguyên sự tích của “Kim Vân Kiề u truy ện” mà không thêm bớt gì. Nhưng nguyên văn thì tự thuật rườm rà, tỉ mỉ, có đoạn hơ i thô l ỗ, kết cấu lại quá dễ dãi rời rạc, trái lại ĐTTT là một công trình nghệ thuật cân đố i, hoàn h ảo, kết cấu chặt chẽ sít sao, tình ý đậm đà khéo léo, văn chương tươi đẹp, thắm đượ m mầu sắc Việt Nam và đầy dẫy thi vị”. Đa số các dịch giả khi dịch ĐTTT sang tiế ng ngoại quốc đều dùng bản của cụ Nguyễn Du chứ không ai dùng bản củ a Thanh Tâm Tài Nhân và đa số trong chúng ta mặc dù đam mê truyện Kiều nhưng có nhiều người chưa h ề đọ c bản của Thanh Tâm Tài Nhân và cũng không biết có sự hiện hữu của nó trong chố n v ăn chương! Như vậy, chúng ta thấy đại thi hào Nguyễn Du thật xứng đáng là mộ t trong An Nam Ng ũ Tuyệt, người thực sự đã đưa ĐTTT lên tột đỉnh của đài danh vọng!
Để à kết luận cho bài viết này, tôi xin mượn hai câu sau đây mà không biết rõ tác giả :
Thùy trinh ất bách dư niên hậu
Thiên hạ mạc vô mộ Tố Như
D ị ch:
Ai ngờ mới quá trăm năm lẻ
Thiên hạ ai không mến Tố Như
Bắc Giang
Co sao dau ma no noi nang voi Thanh Tam Tai Nhan den vay? May nguoi dung tuong minh a dua nay no theo phing trao ma quay ra noi the! Danh rang Nguyen DU co tai gioi hon that, tu ngu lan cot truyen deu hay. Tuy vay nhung cung ko the kheu ra de ma khinh TTTN nhu vay. Dau sao cot chuyen cung lay tu KVKT ma ra thi moi co Truyen Kieu. May ong chi an noi sang bay, ko chi then voi Nguyen Du ma neu Nguyen DU con song noi nhu the thi toi cung thay khinh. Dung co noi la danh nhan van hoa. Dau yeu quy va kham phuc Nguyen DU den dau toi cung ko cho phep cac nguoi noi nang nhu vay. Co khac j chui mang mot nguoi???
Trả lờiXóaDung co khien cho Nguyen Du mat mat nhu vay
Trả lờiXóaXem lai minh di!!!!!!!!!!!!!