ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH(Câu 1223-1702)
XII.DẬY SÓNG TIỀN ĐƯỜNG
Bức thứ 12:
(Nhờ tiếng đàn của Thuý Kiều,
Hồ Tôn Hiến giải thoát khỏi
con mắt ám ảnh của Từ Hải khi chết)
Ngàn mai lợp trắng yên lầu,
Hồ sen in dáng nhịp cầu lung linh.
Chênh vênh trong mái tiểu đình,
Lẫn trong đão liễu vươn mình xanh cong.
Ngàn đào gió gợn ven sông,
Cành phơi sóng lục mơ mòng thiên nga.
Huyện đường mở tiệc thưởng hoa,
Quanh bờ liễu rũ đèn sa lồng vàng. (1230)
Dưới hoa thấp thoáng khách quan,
Giai nhân tài tử luận bàn văn chương.
Gió trầm ngan ngát thiên hương,
Hoàng hôn theo cánh nhạn hường về quanh.
Sau rèm, phơ phất tinh anh,
Kiều ôm đàn, vuốt tóc xanh cúi chào.
Môi tươi chúm chím nụ đào,
Trán cao vòm tuyết, mi rào khóe nhung.
Não nùng một đoá phù dung,
Đôi tay hồng thạch so cung ngại ngần.(1240)
Xa đưa ấm giọng chim thần,
Chào mừng quan khách, xa gần dự thơ.
Nàng ngồi bên tấm rèm thơ,
Lung linh lửa nến, nhạt mờ dấu hoa.
Tóc mây biếc ngọn la đà,
Nửa phơi vóc liễu, nửa sa ráng trời.
Hồ quan tựa án trông vời,
Não nùng nét mặt rõ người năm xưa.
Tay Kiều hồng ngọc đong đưa,
Trầm im lặng khói, nến mờ ảo lay.(1250)
Dây nào lơ thơ mây bay,
Nhỏ to như nhắc chuyện ngày hồng hoang.
Lòng Hồ tan loãng mênh mang,
Nỗi buồn khơi lại âm vang ngào nào.
Lòng đàn bước thấp bước cao,
Dường như ngọn sóng xuôi vào trường giang.
Đỉnh trầm cũng ngát thêm hương,
Cây đàn dậy sóng Tiền Đường trôi mau.
Tưởng muôn ngọn đổ qua đầu,
Mồ hôi đẫm mái tóc sầu Hồ quan.(1260)
Mắt Từ ám ảnh chưa tan,
Bỗng như vụt lóe một làn gươm bay.
Mồ hôi ngỡ máu tuôn đầy,
Tay Hổ sửa tóc, mặt mày tái xanh.
Năm cung vàng ngọc tan tành,
Liễu tơ ướt sũng trời xanh rũ hồ.
Dây đàn chợt nín hư vô,
Tao nhân mặc khách còn ngơ ngẩn hồn.
Lại run quỷ oán ma hờn,
Hơi đâu lạnh khối băng sơn bềnh bồng (1270)
Dáng Kiều lau lách thu đông,
Như trăng úa gọi nước sông đi về.
Gió vờn cỏ nội lê thê,
Vệt sao lặn giữa tiểu khê hẹn hò.
Ngón đàn thiên cổ so đo,
Tơ đồng lãng đãng theo lò hương gây.
Hạt sầu nức nở cung dây,
Tóc sa nét mực nến gầy lửa hiu.
Trán Hồ gợn nét đăm chiêu,
Đã bời gió tấp lại nhiều mưa đong.
Mắt Từ thoáng hiện ngoài song,
Nhìn Hồ trầm mặc như vòng trăng Thu.
Cành duơng trĩu ngọn sương mù,
Lồng đèn gió bạt lửa lu ngọn tàn.
Tay tiên chợt ấm hơi đàn,
Mạch tuôn tí tách, trong làn xuân hương.
Nội ngàn hoa hé nụ sương
Lò trầm man mác khói vương sợi dài.
Tưởng chừng chim họp ban mai,
Đậu về reo hát hiên ngoài triền miên.(1290)
Hồ nghe nhẹ bẵng ưu phiền,
Dây đàn ám mạch suối thiêng tỉnh ngời.
Mắt Từ như cánh hạc trời,
Bay lên mất hút giữa nơi vô cùng.
Bấy giờim bặt năm cung,
Trầm thưa thớt toả nến lung linh mờ.
Mắt Hồ vuơng ngấn lệ mờ,
Môi khô cười nụ hững hờ sầu quên.
Ôm đàn khép nép hài tiên,
Tạ từ quan khách dáng quyên ngại ngần. (1300)
Tiệc đào tài tử giai nhân,
Vòng tay đưa tiễn trăng dần dần xê.
Lo thơ liễu tựa hoa kề,
Hoa rơi tiễn bước hoa về cầu hoa.
Thâm trầm, thơ phú ngâm nga,
Sang canh eo óc tiếng gà vọng sương.
Bức thứ 12:
(Nhờ tiếng đàn của Thuý Kiều,
Hồ Tôn Hiến giải thoát khỏi
con mắt ám ảnh của Từ Hải khi chết)
Ngàn mai lợp trắng yên lầu,
Hồ sen in dáng nhịp cầu lung linh.
Chênh vênh trong mái tiểu đình,
Lẫn trong đão liễu vươn mình xanh cong.
Ngàn đào gió gợn ven sông,
Cành phơi sóng lục mơ mòng thiên nga.
Huyện đường mở tiệc thưởng hoa,
Quanh bờ liễu rũ đèn sa lồng vàng. (1230)
Dưới hoa thấp thoáng khách quan,
Giai nhân tài tử luận bàn văn chương.
Gió trầm ngan ngát thiên hương,
Hoàng hôn theo cánh nhạn hường về quanh.
Sau rèm, phơ phất tinh anh,
Kiều ôm đàn, vuốt tóc xanh cúi chào.
Môi tươi chúm chím nụ đào,
Trán cao vòm tuyết, mi rào khóe nhung.
Não nùng một đoá phù dung,
Đôi tay hồng thạch so cung ngại ngần.(1240)
Xa đưa ấm giọng chim thần,
Chào mừng quan khách, xa gần dự thơ.
Nàng ngồi bên tấm rèm thơ,
Lung linh lửa nến, nhạt mờ dấu hoa.
Tóc mây biếc ngọn la đà,
Nửa phơi vóc liễu, nửa sa ráng trời.
Hồ quan tựa án trông vời,
Não nùng nét mặt rõ người năm xưa.
Tay Kiều hồng ngọc đong đưa,
Trầm im lặng khói, nến mờ ảo lay.(1250)
Dây nào lơ thơ mây bay,
Nhỏ to như nhắc chuyện ngày hồng hoang.
Lòng Hồ tan loãng mênh mang,
Nỗi buồn khơi lại âm vang ngào nào.
Lòng đàn bước thấp bước cao,
Dường như ngọn sóng xuôi vào trường giang.
Đỉnh trầm cũng ngát thêm hương,
Cây đàn dậy sóng Tiền Đường trôi mau.
Tưởng muôn ngọn đổ qua đầu,
Mồ hôi đẫm mái tóc sầu Hồ quan.(1260)
Mắt Từ ám ảnh chưa tan,
Bỗng như vụt lóe một làn gươm bay.
Mồ hôi ngỡ máu tuôn đầy,
Tay Hổ sửa tóc, mặt mày tái xanh.
Năm cung vàng ngọc tan tành,
Liễu tơ ướt sũng trời xanh rũ hồ.
Dây đàn chợt nín hư vô,
Tao nhân mặc khách còn ngơ ngẩn hồn.
Lại run quỷ oán ma hờn,
Hơi đâu lạnh khối băng sơn bềnh bồng (1270)
Dáng Kiều lau lách thu đông,
Như trăng úa gọi nước sông đi về.
Gió vờn cỏ nội lê thê,
Vệt sao lặn giữa tiểu khê hẹn hò.
Ngón đàn thiên cổ so đo,
Tơ đồng lãng đãng theo lò hương gây.
Hạt sầu nức nở cung dây,
Tóc sa nét mực nến gầy lửa hiu.
Trán Hồ gợn nét đăm chiêu,
Đã bời gió tấp lại nhiều mưa đong.
Mắt Từ thoáng hiện ngoài song,
Nhìn Hồ trầm mặc như vòng trăng Thu.
Cành duơng trĩu ngọn sương mù,
Lồng đèn gió bạt lửa lu ngọn tàn.
Tay tiên chợt ấm hơi đàn,
Mạch tuôn tí tách, trong làn xuân hương.
Nội ngàn hoa hé nụ sương
Lò trầm man mác khói vương sợi dài.
Tưởng chừng chim họp ban mai,
Đậu về reo hát hiên ngoài triền miên.(1290)
Hồ nghe nhẹ bẵng ưu phiền,
Dây đàn ám mạch suối thiêng tỉnh ngời.
Mắt Từ như cánh hạc trời,
Bay lên mất hút giữa nơi vô cùng.
Bấy giờim bặt năm cung,
Trầm thưa thớt toả nến lung linh mờ.
Mắt Hồ vuơng ngấn lệ mờ,
Môi khô cười nụ hững hờ sầu quên.
Ôm đàn khép nép hài tiên,
Tạ từ quan khách dáng quyên ngại ngần. (1300)
Tiệc đào tài tử giai nhân,
Vòng tay đưa tiễn trăng dần dần xê.
Lo thơ liễu tựa hoa kề,
Hoa rơi tiễn bước hoa về cầu hoa.
Thâm trầm, thơ phú ngâm nga,
Sang canh eo óc tiếng gà vọng sương.
XIII. NGỠ NGÀNG BỌT NƯỚC
XIII. NGỠ NGÀNG BỌT NƯỚC
Bức thứ mười ba:
(Kim Trọng cứu giải nghi án của Ngô Khôi)
Kim đang ngồi trước công đường,
Ngói cong mưa rụng, rêu tường lá bay.
Xạc xào gió cuốn hoa lay,
Cây nghiêng hàng gọi cuối ngày vàng trơ. (1310)
Núi xa thành dựng mây mờ,
Thôn xa khói tím vẩn vơ nhạt nhoà.
Ngoài sân lích chích bầy gà,
Gọi nhau đến dười hiên nhà ủ con.
Chim nào buông điệu véo von,
Tưởng như đất cũ tiếng còn giục ta.
Bao năm chưa lại quê nhà,
Trải hồng một dải cỏ hoa dõi chờ.
Chênh vênh vách núi xanh mơ,
Thác cao ghềnh vắt dòng tơ ngang trời.
Trại hoa Đá Trắng thương ơi,
Mỗi tên đất – mỗi dấu đời vọng vang.
Thương từ nương sắn khóm lang,
Nhớ từ mùi đất bên đàng nhớ đi.
Lớn lên giữa núi xanh rì,
Cỏ cây như thể tứ chi thuộc mình.
Một thời chia nhục chia vinh,
Đã làm nên cõi tâm tình – là ta.
Bây giờ sợ khác trước xa,
Chắt chiu ảo ảnh như là thiên thu (1330)
Kim còn tựa án ưu tư,
Tình neo cánh gió, ý từ hạt mưa.
Dưới thềm đã vọng tiếng thưa,
Dẫn vào bà lão già nua tuổi trời.
Lưng còng, quần áo tả tơi.
Tay nương gậy trúc vẻ người chốn quê.
Kim truyền : “Lão ở đâu về ?
Có chi oan ức đạt đề của công”.
“Bẩm quan già ở núi Đông
Suốt đời cặm cụi vun trồng rau khoai.(1340)
Hiếm hoi được mụn con trai,
Ngô Khôi tên gọi, tuổi ngoài ba mươi.
Cảnh già mẹ goá, con côi,
Vào rừng hái nấm, lên đồi bẻ măng.
Nhà nghèo chưa đủ miếng ăn,
Kể chi đau ốm khó khăn khôn lường.
Năm xưa quan trấn địa phương,
Một hôm gặp ở giữa đường, bắt đi.
Giũ giam nào rõ tội chi,
Thân nghèo còn biết lấy gì đảm đang. (1350)
Hai năm còm cõi lang thang,
Dò la được biết đày sang huyện này.
Vội vàng chống gậy đi ngay,
Tấm thân muôn dặm đoạ đày nắng mưa.
Lần xin cơm cặn canh thừa.
Nhìn con lần cuối cho vừa nhớ mong.
Xác này bỏ chợ trôi sông,
Còn hơn tựa cửa ngồi trông lệ tràn.
Đánh liều già đến của quan,
Cậy nhờ phụ mẫu xoá oan cởi sầu. (1360)
Mẹ con cho đuợc nhìn nhau,
Làm thân trâu ngựa kiếp sau nguyện đền.
Vô cùng – cảm ta ơn trên,
Thân này dầu nát không quên tấc thành.
Mưa ngoài trĩu ngọn cỏ xanh,
Mây vương nắng quái bên thành mưa dây.
Rập đầu lạy trước án mây,
Trên khuôn mặt lão vương đầy lệ rơi.
Kim truyền tra sổ tìm người,
Rõ ràng án buộc những lời vu vơ.
Già nghe mừng tủi sững sờ,
Vẻ e quáng mắt, vẻ ngờ chiêm bao.
Lệnh truyền xuống bọn quản lao,
Giỏ khoai vội xách theo vào thăm con.
Trông già chàng những héo hon,
Bước chân từ mẫu trèo non đạp ngàn.
Đời còn lắm chuyện trái oan,
Bất công nhan nhản, lầm than dẫy đầy.
No nê chi bọn tớ, thầy,
Họp bè kết nhóm đạp giày dân đen. (1380)
Trời cao chẳng thể với lên,
Tiền tài thế lực bốn bên dập vùi.
Hùa nhau một lũ ăn người,
Tiếng kêu tắc nghẹn, tiếng cười hả hê.
Giận mình một thủa đam mê,
Trị dân thẳng mực ra bề tôi trung.
Nặng nề quì gối khom lưng,
Cũng phường bịt mắt tai bưng bấy ngày.
Vá trời khôn một bàn tay,
Đành đem chí gửi chén say giày vò. (1390)
Thôi thì đủ mặt đủ trò,
Thân tâm nô lệ vào cho đồng tiền.
Tưởng khi theo đuổi bút nghiên,
Mộng làm sáng đức thánh hiền cửa công.
Ngỡ ngàng bọt nước ra sông,
Chốn quê thèm đuợc làm ông đồ già.
Chính chân giữ lấy nếp nhà,
Đã là không Hoá thì Hoà thái hư.
Khi ngày cao giọng thi thư,
Khi đêm thưởng nguyệt cùng sư đạo đàm. (1400)
Khi qua làng nước luận bàn,
Bảo răn như đạo, khuyên can thực lòng.
Còn hơn hoạn lộ long đong,
Giúp dân chẳng được như lòng ước ao.
Ta còn nhớ giấc chiêm bao,
Cầu treo dốc ngược rơi vào phù vân.
Theo Kiều lấy phúc làm nhân,
Cuối năm xin được thi ân giảm tù.
Những ai án tích tờ mờ,
Xin cho phóng thích lượng nhờ quan trên.(1410)
Bút rồng đạo đạt đôi tên,
Ý tình tha thiết trình lên tỉnh đường.
Bọt mưa nhuộm nắng mây huờng,
Cơn mây trên đỉnh phố phường về đâu.
Thì thùng nhịp trống tan hầu,
Ngoài sân ngựa cũng gục đầu hí vang.
XIV. HOÀ TAN DẶM TRƯỜNG
XIV. HOÀ TAN DẶM TRƯỜNG
Bức thứ mười bốn:
(Ngô Khôi tới dâng Kim Trọng đôi chim Đại Hồi,
nhờ vậy Vương Quan tìm đuợc tung tích Hồ ông
-Thầy dạy học của Kim, Quan, Kiều- dòng dõi Hồ
Quí Ly- Việt Nam – lưu lạc bên Tàu, là một học giả
chủ truơng “Tri Hoà Hành Hoá”)
Guồng tơ nhật nguyệt mênh mang,
Cuốn hồng sương núi, phơi vàng xuân hoa.
Lưng trời lác đác chim qua,
Cánh theo gió ấm thiết tha tìm về. (1420)
Mây bay lả nét thơ đề,
Núi xanh thiên bút ngọn kề nghiên suơng.
Lầu cong mái đậm nắng vương,
Tiếng chim trong cụm hải đường xôn xao.
Huyện đường khuất giữa ngàn đào,
Đì đùng pháo nổ, ngạt ngào trầm xông.
Cúc vàng nở ngát hiên đông,
Mây trời cỏ đất mênh mông một màu.
Họ hàng đoàn tụ bên nhau,
Nhìn đàn trẻ nhỏ trước sau một bầy.(1430)
Ngày xuân mới gặp nhau đây,
Vương, Kim ngồi dưới tàng cây thưởng trà.
Chuyện gần rồi đến chuyện xa.
Tấm lòng hồi tưởng quê nhà đinh ninh.
Hai ta như bóng theo hình,
Leo lên cành bưởi luận bình văn chương.
Nhân khi Thầy mãi cuộc cờ,
Trốn trường ra tắm bên bờ Bảo giang.
Qua nương bẻ trộm mía vàng,
Ăn xong nhặt sỏi bên đàng ném nhau (1440)
Trở về nhận bốn roi đau,
Thế rồi lại trốn đi câu như thường.
Trong mình, giấu mấy nén hương,
Ghé vào bãi mộ bên đường phụ ma.
Sườn đồi đuổi bắt reo ca,
Buông diều cánh cốc la đà bay lên.
Trèo cây đa, bắt sáo đen,
Móc nhằm hang rắn một phen hoảng hồn.
Mùa đông rủ chó săn chồn,
Xuống khe đơm cá, lên cồn bẫy chim (1450)
Bạn xưa còn nhờ như in,
Bây giờ ai biết bóng chim cuối trời.
Mùa nào chẳng có thú chơi,
Ngày nào chẳng đứng nghe lời rầy la.
Sau lưng có kẻ hầu nha,
Xin đưa một kẻ vào là Ngô Khôi.
Dâng lên cặp chim Đại Hồi,
Lông tơ như thể phấn nhồi tuyết vương.
Quả là báu vật lạ thường,
Tên Khôi khép nép bên tường trình thưa.(1460)
Rằng: “Con từ độ ơn nhờ,
Thượng quan minh xét, bao giờ dám quên.
Đoái thương đến phận dân hèn,
Tha về phụng dưỡng mẹ hiền sắt son.
Đức tày vạn biển nghìn non,
Dù cho sông cạn đá mòn không phai.
Quê nhà có ngọn Thiên Thai,
Đỉnh cao chót vót là đài Thông Linh.
Có hang Thánh Hoá, Tâm Bình.
Bên chùa Non Nước cảnh tình thanh u.(1470)
Có Thầy ở nước Đại Ngu,
Là Hồ ẩn sĩ dật cư chốn này.
Tổ tiên lưu lạc qua đây,
Cố hương cách mấy trùng mây quan hà.
Sống cùng ái nữ hiền hoà,
Sắc tài đôi vẻ tên là Ẩn Lan.
Sớm trưa cung cửi tầm tang,
Xuống khe giặt lụa, lên ngàn dạo chơi.
Vương, Kim vừa thoáng nghe lời,
Nhìn nhau xúc động bồi hồi- Thầy xưa !(1480)
Bao năm đằng đẵng ai ngờ,
Mây còn quyện núi nước chưa qua cầu.
Vương truyền: “Người hay trình mau,
Tiểu thư còn biệt hiệu : Sầu Hoa Dung? “
Họ Ngô xiết đỗi lạ lùng:
"Quan đây, Thầy đó hẵn chung họ hàng ?
Bẩm quan quả đúng hiệu nàng,
Người còn tôn bậc chúa lan tuyệt trần".
Hai chàng nghe nói tần ngần,
Mỗi lời như dẫn xa dần vào mơ. (1490)
Mái trường cỏ lợp đơn sơ,
Xanh xanh ngõ trúc, ơ hờ then hoa.
“Làm nên Hoá, Biết nên Hoà”
Chủ trương, riêng phải học gia kinh quyền.
Điều Thân, Tịnh Ý, Hoàn Nguyên,
Hoà vào xã hội, thiên nhiên đổi đời.
Tình thương, lẽ sáng thông ngời,
Giúp người Tự Chỉnh giữa đời ngăn che.
Lời Thầy khuyên nhủ răn đe,
Khi ngồi luyện tập khi nghe văn bình (1500)
Đạo trương thắm thiết ân tình,
Bao năm tấc dạ in hình chưa phai.
Khôi rằng: “Như loại chim này,
Tuy là dã điểu – lại hay nghĩa nghì.
Theo nàng – đuổi cũng không đi,
“Lý – Trần – Lê” hót vân vi núi ngàn.
Lâng lâng như suối reo đàn,
Tưởng lời non nước hoà tan dặm trường.
Từ nghe Lan hát trên nương,
Đôi chim từ bỏ non sương theo cùng.(1510)
Suốt ngày như bạn vui chung,
Tiếng chim hoà vọng trên vùng non xanh
Thế rồi kết tổ trên cành,
Thời gian thắm thoát đã thành một đôi.
Nàng đặt tên chim Đại Hồi,
Ngày ngày tung cánh trong nôi mây hồng.
Con thường hầu hạ Hồ ông,
Lên non hái thuốc, câu sông buông thuyền.
Tập tành theo ít bút nghiên,
Thảnh thơi riêng cõi uyên tuyền qua mau.(1520)
Đói no bữa cháo bữa rau,
Nửa nuôi thân mẫu, nửa hầu tôn sư.
Từ ngày hoạ đến chẳng ngờ,
Duyên may gặp của quan nhờ lượng trên.
Cho về phụng duỡng mẹ hiền,
Ơn cao lòng những mong đền một hai.
Nhân khi kể đến danh ngài,
Ẩn Lan gủi tặng chim này lễ xuân.
Gọi là báo đáp đôi phần,
Rạng soi thánh đạo trị dân an hoà .(1530)
Kim truyền : “Heo hút non xa,
Dùi mài kinh sử được là quí hơn.
Vị gì lặn lội xuân sơn,
Qua đây đền đáp chút ơn bình thường.
Mẹ già sớm móc chiều sương,
Lỡ khi nắng gió thất thường chớ khinh.
Sinh thành ân nghĩa cho mình,
Còn ta chút lượng hiếu sinh đáng gì.
Nghỉ chân dăm bữa – rồi đi,
Cho ta gửi chút quà về núi Đông. (1540)
XV. ÀO ÀO NGỌN GIÓ
XV. ÀO ÀO NGỌN GIÓ
Bức thứ mười lăm:
(Kim, Quan du xuân – ra tay trừng trị
bọn cường hào vừa gây nên hai án mạng)
Bâng khuâng huơng nội hoa đồng,
Làng xa bát ngát mấy vồng tre xanh.
Cỏ dài lả gió qua nhanh,
Chiều Xuân chim tụ trên cành mừng nhau.
Nắng chia vàng ửng hàng cau,
Thì thùng trống điểm nhịp cầu đình xa.
Đầu năm mở hội thưởng hoa,
Nào là Quan họ, nào là Trống quân.
Hai bên tuấn tử giai nhân,
Hoà nhau điệu hát trong ngần đầu thôn. (1550)
Sông dài chín ửng hoàng hôn,
Khói dâng lãng đãng bên cồn chim kêu.
Nhịp hò bơi chãi giục đều,
Thuyền đua theo ngọn thuỷ triều như bay.
Tiếng nào la hét vỗ tay,
Ven đê thấp thoáng lửa bay đuốc hồng.
Mây phơi giăng đỏ đồi thông,
Chùa rêu núi vọng hồi chuông vân tuyền.
Vương, Kim cải dạng dân thường,
Thong dong thầy tớ lên đường dạo xuân.(1560)
Dấu hài lân mẫn chúng nhân,
Bước đi cây cỏ xanh ngần vàng pha.
Nơi thì vào hội Đình Hoa,
Cây đu đầu ngõ la đà cành lên.
Gái quê má lúm đồng tiền,
Khăn vuông mỏ quạ, yếm viền gò xanh.
Mắt huyền tươi nét long lanh,
Thắt lưng hoa lý trên nhành vờn bay.
Người chờ đánh một vòng vây,
Bên kia trì xuống, bên này nhún lên (1570)
Cần tre lại vắt tung lên,
Nàng càng xanh mặt, chàng thêm hứng nồng.
Chung quanh tròn mắt cười trông,
Lắc lư đầu hướng theo vòng đu cao.
Nơi thì mở hội Thôn Đào,
Ngoài sân đô vật lăn vào quần nhau.
Trống cầm vừa đổ nhịp mau,
Hai thân hùng hục – một màu đồng hun.
Nơi thì chèo hát i uông,
Tiếng kèn eo éo, tấn tuồng múa may. (1580)
Diễn viên chỉ đó chỉ đây,
Sau cành đuốc lớn mặt mày đỏ ran.
Người xem dưới bục lấn tràn,
Áo hoen khăn bạc những làn mồ hôi.
Tập trung trống trút từng hồi,
Hoàng hôn lặng tắt sau đồi tùng xanh.
Cội mai phơ phất đôi cành,
Con ong kiếm mật bay nhanh bãi chiều.
Gió lùa ngọn cỏ đìu hiu,
Nam thanh nữ tú dập dìu lại qua.(1590)
Bỗng nghe tiếng chạy tiếng la,
Rượt theo thằng bé quanh nhà lao xao.
Người xem không lối ra vào,
Trẻ kia còn biết ngả nào chuồn mau.
Hầm hầm mặt ngựa đầu trâu,
Quật theo đôi gậy, nắm đầu nhắc lên.
Lết đi như kéo tấm mền,
Buông tay, xác nọ rũ mềm lăn quay.
Một người xanh xám mặt mày,
Xông vào xác trẻ vừa lay vừa gào. (1600)
“Con ơi con có làm sao,
Mẹ đây còn sống thế nào hả con ?”
Trẻ kia hé mặt héo hon,
Nấc lên nhìn mẹ như còn thiết tha.
Buông thây con - mụ khóc oà,
Rú lên ôm lấy người nhà vương tôn.
Gã tung đạp, hộc máu mồm.
Bước chân lảo đảo mụ ôm bụng nằm.
Quân đâu kéo đến rầm rầm,
Nửa mau cấp cứu, nửa ngầm bủa vây. (1610)
Kim truyền: “Trói hết bọn này",
Người quanh đổ lại tiếp tay tức thì.
Lôi thôi khăn áo tu mi,
Giáo gươm tuốt sáng dẫn đi một đoàn.
Mụ run tay chỉ bên đàng,
Thều thào, mấp máy hai làn môi khô.
Rằng: “Con thân cô thế cô,
Chỉ còn đưa bé cậy nhờ thượng quan”
Dường như dồn hết hơi tàn,
Lời chi tắt nghẹn, hai bàn tay yên.
Bên trong tiếng trẻ ré lên,
Vương truyền vực xác trên khiêng vào nhà.
Đầu giường có bát cháo hoa,
Góc tường siêu thuốc hơi phà lửa sôi.
Nhìn hai thây chết bồi hồi,
Gặng tra mới có một người chịu thưa.
Rằng chồng mụ nọ năm xưa,
Đày làm lính thú nắng mưa cuối trời.
Một hôm quần áo tả tơi,
Trốn về nhà giữa những lời hăm he. (1630)
Cái thân trên búa dưới đe,
Hết hào thuốc vặt, lại be rượu đầy.
Hết chiều tớ, lại hầu thầy,
Nai lưng làm mướn nuôi bầy nhặng xanh.
Ít tiền buôn bán để dành,
Cởi ra đút lót mấy anh sống nhờ.
Có thì giả bộ làm ngơ,
Bằng không xách cổ lên chờ cửa quan.
Thương con xót vợ cơ hàn,
Cắn răng ngậm miệng phàn nàn cùng ai.(1640)
Kéo cầy nuôi vợ - lệch vai,
Bao nhiêu đày đoạ rạc rài lắm phen.
Năm rồi có kẻ ghét ghen,
Thế là đóng cũi cài then nhốt vào.
Cái thân nhục nhã lính đào,
Tù cho đáng kiếp ai vào viếng thăm.
Mẹ con làm mướn quanh năm,
Thắt lưng buộc bụng khó khăn kể gì.
Tháng rồi sinh một hài nhi,
Có ai dám mướn thuê gì nữa đâu.(1650)
Cảnh nhà trăm mối lo sầu,
Thế rồi ngả bệnh ngất đầu chẳng lên.
Thằng cu lớn phải kiếm tiền,
Thuốc thang nuôi mẹ quanh miền xin ăn.
Kể chi hắt hủi nhục nhằn,
Cúi đầu lạy hết khó khăn phiền hà.
Xóm trong có một Hoạn gia,
Tiền kho bạc đụn đầy nhà quyền danh.
Mấy đời dòng dõi công khanh,
Đè đầu bóp cổ dân lành nhiều phen. (1660)
Đã đành yên phận bùn đen,
Đạp quen người lại cố lèn thật đau.
Nuôi thêm một lũ đầu trâu,
Làng trên xóm dưới âu sầu bấy nay.
Đảo điên như trở bàn tay,
Quẹt công lừa của một bầy gian ngoan.
Bao người tù rục chết oan,
Bắt con, cuớp vợ tiêu tan dần dà.
Có ai tính chuyện kêu ca,
Nửa đêm ném lửa đốt nhà như chơi.(1670)
Đợi trời thì đã tàn hơi,
Căm bầm tím ruột, ngậm lời dạ thưa.
Tha hồ làm gió làm mưa,
Quan trên sợ thế còn chừa mặt ai.
Hoạn gia nổi tiếng một “ngài”,
Tham lam chật dạ, gái trai tính lừng.
Cầm đầu thêm bọn khuyển ưng,
Chuyên bề cướp giật, chuyên lùng gái tơ.
Chôn vùi bao kiếp đào thơ,
Ối thôi ! Tội kể đã mờ trời cao (1980)
Chiều nay thầy tớ tiêu dao,
Thằng cu vô phúc ném vào lỡ tay.
Trông lên phách lạc hồn bay,
Co chân lủi đến chỗ này – rồi yên.
Nhờ ơn nhị vị quan trên,
Rộng soi mới dám trình lên đôi phần.
Nói cho cạn nỗi khổ dân,
Rồi ra nát thị tan thân cũng đành.
Dù là voi đạp ngựa phanh,
Quyết đem đổi mạng cho thành tiếng kêu.(1690)
Khổ đau chất ngất bao điều,
Đèn trời soi rõ nay liều mạng thưa.
Bỗng đâu ngọn gió cuốn mờ,
Ào ào ngọn gió vật vờ tàng me.
Ai ngờ sau chốn lũy tre,
Lắm phường cẩu tặc kết bè hại nhân.
Chẳng kiêng phép nước xa gần,
Cậy thần cậy thế - gớm quân lột người.
Đường về Xuân cũng kém tươi,
Kim truyền đem trẻ về nơi công đàng.(1700)
Ra tay phá xích xiềng oan,
Bằng không ta sẽ cáo quan trở về.
Tranh phụ lục: Thư pháp Truyện Kiều- Trần Ngọc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét