Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2009

19.2- ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH - (tiep theo) (Câu 1703-2136)


ĐOẠN TRƯỜNG VÔ THANH(Câu 1703-2136)

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 05/03/2008 12:29:04 pm
XVI. AI ĐỂ HOA DUNG 

Bức thứ mười sáu: 
( Vương Quan hồi tưởng người yêu cũ –
nàng Ẩn Lan (con gái Hồ ông) và dự định
đi theo Ngô Khôi thăm lại Thầy học)

Vương Quan thơ thẩn ngoài đê
Ven sông in bóng hoa lê nở bừng.
Tiếng ai hú vọng trong rừng,
Mây phơ lụa tím trên sừng trâu tơ.
Nền trời nhàn nhạt màu mơ,
Sông đem ráng đỏ sóng hờ hững đi.
Sáo diều vọng tiếng vu vi,
Như chim nghiêng cánh tìm gì lưng mây.(1710)
Thôn xa nghển bóng cau gầy,
Vẻ như tư lự dõi bầy sẻ thưa.
Gió chiều giục nhớ thôn xưa,
Vườn mai hoa trắng bây giờ còn tươi.
Niềm quê vời vợi phương trời,
Lửa chiều thấp thoáng tưởng lời cố thôn.

Hình ảnh

Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn,
Dáng ai cắp rỗ lên cồn hái dâu.
Tiếng nàng hát vọng đôi câu,
Dừng tay viết mướn lòng sầu vẩn vơ.(1720)
Lều tranh còn ủ chăn mơ,
Mối tình là một bài thơ vô đề.
Ẩn Lan ơi ! Mái tóc thề,
Gió xuân nay có vỗ về suối hương.
Đêm nao ngồi học bên tường,
Nến leo lắt lụi, chữ vương vắt chìm.
Ngoài song thoảng tiếng hài im,
Sợi dài tóc buộc chùm hoa ngâu vàng.(1730)
Sách thơm áp má mơ màng,
Tỉnh ra hương thoảng bóng lan chập chờn.
Nhớ khi em dỗi em hờn,
Hai ta chia sẻ năm cơm cháy vừng.
Nhớ đêm nằm võng ngó trăng,
Đếm ngôi “sao sáng” lại rằng “sáng sao”
Giọng em lanh lảnh tiếng cao,
Răng em tươi hạt ngọc nào long lanh.
Nền trời mây lại qua nhanh,
Viền trăng vương phải đầu cành vỡ tan.(1740)
Những đêm trời tối như than,
Bắt con đom đóm trên giàn mồng tơi.
Cho em, em cất tiếng cười,
Hất tay em thả đóm trời tung bay.
Vòi ta đuổi bắt lại ngay,
Thả đi, đòi lại mãi đày đoạ nhau.
Gọi em là vẻ hoa sầu,
Lan đòi nụ bưởi cài đầu làm duyên.
Nhặt son trên núi mài nghiên,
Thơ anh em điểm dấu yêu màu hồng.(1750)
Tưởng khi đỗ đạt thành công,
Tay đan suối tóc, hoa lồng trăng non.
Chưa thề sông cạn đá mòn,
Trang tình đã điểm dấu son đầu đời.
Dường như trong ánh mắt cười,
Vẻ như ngượng ngập mở lời con tim.
Thế rồi – tăm cá bóng chim,
Theo Thầy ẩn dật dời miền đi xa.
Anh về lý vẫn đơm hoa,
Cuối thôn còn lại mái nhà xác xơ. (1760)
Hiên trăng soi quạnh bàn cờ,
Tìm chi con đóm cũng vờ vẩn bay.
Buồng đây, Lan vẫn ngồi may,
Bây giờ tơ nhện gió lay lạnh lùng.
Âu sầu ai để hoa dung,
Nền xưa giảng sách tiếng trùng ngân vang.
Tìm em đò dọc thuyền ngang.
Thấy đâu dấu vết chim sang đất nào.
Năm xưa em tựa cội đào,
Tên ai còn dấu khắc vào da cây. (1770)
Mấy lần anh lại chốn đây,
Hiên tranh đôi bướm vàng bay lững lờ.
Lòng buồn trăm mối vò tơ,
Sợ trông hoa nở, ngại chờ hứng thi.
Những đêm trăng sáng buồn chi,
Mà lòng sách vẳng tiếng gì chan chan.
Ngỡ chim gọi bạn trên giàn,
Ngỡ em phơi cái thời gian dậu ngoài.
Cánh lòng lại vượt ngàn mây,
Tìm đâu suối tóc tay cài hoa xưa. (1780)
Có đêm thao thức nghe mưa,
Tưởng em về tiếng guốc đưa ngại ngần.
Đông tàn còn thể chờ Xuân,
Đôi ta biền biệt sông Ngân nhạt nhoà.
Biết đâu em ở miền xa,
Nghe mưa mà chẳng như ta khóc mình.
Có đêm soi bóng lung linh,
Bâng khuâng một ngọn đèn tình trong sương.
Em thì biền biệt dáng hương,
Riêng hoa in bóng trên giường lơ thơ.(1790)
Tóc đan hoa ảnh lờ mờ,
Mộng xưa hoen ướt đôi tờ lệ thi.
Nước non cũng nhuốm sầu bi,
Người đi – úa cái Xuân thì – ai đây.
Dặm hồng biền biệt cồn mây,
Cỏ hoa chung giấc sum vầy bấy xuân.

Hình ảnh

Thế rồi vâng lệnh song thân,
Xe dây cùng với giai nhân xóm ngoài.
Có khi thức ngủ canh dài,
Mơ hồ còn tưởng dáng ai ngồi kề.(1800)
Tỉnh ra mới biết cơn mê,
Mảnh trăng cùng bóng hoa lê lạt dần.
Tình đời rồi cũng phù vân,
Biết bao sóng gió xoá dần dư âm.
Dẫu lòng ôm mối tình câm,
Vùi sâu một nấm mù tâm lệ nhoà.
Bây giờ bắt được tin hoa,
Tấm lòng lại quặn xót xa lạ thường.
Sáng mai hành lý lên đường,
Thăm Lan biết mấy dặm trường ngựa bon. (1810)

Sông dài cởi yếm hoàng hôn,
Bầy chim ngủ đậu bên cồn lại bay.
Gió về đưa ngọn sóng say,
Tiếng ca mục tử cuối ngày gọi trâu.
Bãi xa cỏ tím rầu rầu,
Mái đình rêu vọng trống chầu nhịp mưa. 

Phụ lục: Thư pháp Truyện Kiều- Trần Ngọc

XVII Lòng Như Khối Ngọc

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 07/03/2008 11:01:38 am
XVII Lòng Như Khối Ngọc 

Bức thứ mười bảy: 
(Kiều, Vân hành huơng chùa Văn Chương, 
thăm Thầy Văn – nhà sư đã dạy Kiều 
Kinh Kim Cương) 

Trời Xuân trong vắt may thưa,
Nắng hồng như xoã guồng tơ buông dần.
Núi xa bút dựng xanh ngần,
Cõi thiêng lảnh giọng chim thần chợt ca. (1820)
Tiếng chuông lay nhẹ ngàn hoa,
Bóng mây dường cũng giao hoà lang thang.
Ngày rằm sắm sửa đèn nhang,
Kiều, Vân ngồi võng trên đàng hành huơng.

Sáng nay vãng cảnh Văn Chương,
Lưng non đôi mái khói hương phụng thờ.
Của nhà sư kiêm nhà thơ,
Thường cùng mặc khách cuộc cờ tiêu dao.
Nghe xưa cũng bậc anh hào.
Chí cao chẳng thoả, ẩn vào cửa Không.(1830)
Riêng lòng ôm ấp non sông,
Kết liên hào kiệt tang bồng chờ khi.
Dần dà thấm nhập từ bi,
Lòng yêu muôn loại sá gì – một hai.
Diệu hành chuyển đạo Như Lai,
Vẫn trong vạn pháp, vẫn ngoài sắc danh.
Y phương cứu giúp dân lành,
Đôi tay đinh lực như thành phục ma.
Chẳng nề trà rượu đờn ca,
Chốn nào chốn chẳng hiền hoà đạo duyên. (1840)
Thong dong nửa Phật nửa Tiên,
Thiền tâm hoá độ một miền sao tr8ang.
Chí người như cánh chim bằng,
Hát ca vi vút bên Hằng cát vương.
Về đây lập cảnh Văn Chương,
Am che mái cỏ bên sườn núi cao.
Đường lên trải trắng bông đào,
Gió sa hương nhuỵ, trời vào lá cây.
Tao nhân thường gặp nhau đây,
Thưởng trà thiền vị nghe Thầy luận kinh. (1850)
Đậm đà giáo lý nhân tình,
Niết Bàn thành nẽo phù sinh đổi dời.
Đã quen biết mấy năm trời,
Với Kim, thầy cũng là người cố tri.
Hình ảnh
Ngày rằm chị rủ em đi,
Thong dong võng lụa hai vì phu nhân.
Bên đường cỏ nhuộm màu Xuân,
Đôi con châu chấu xanh ngần vụt bay.

Nhạn sa soi mặt sông đầy,
Lách lau đôi ngọn bông gầy thiết tha.(1860)
Bóng chùa lồng với bóng hoa,
Náng Xuân lóng lánh vừa sa đôi làn.
Núi vuông Thiên Ấn ngọc lam,
Sông nghiêng lụa đậm dấu chàm thiên thư.
Rừng tùng thoảng mõ trầm tư,
Nổi trôi chuỗi hạt thái hư bềnh bồng.
Thảo trường lập phái Thi Tông,
Trường Sơn vẽ một nét cong vách ngời.
Mênh mang mây trãi gấm phơi,
Hoa lay tưởng ngọn bút trời phê văn(1870)
Võng đưa bên suối tẩy trần,
Sỏi xanh vương vần dấu xuân tiên hài.
Đào tràng chim mở hội mai,
Trầm theo sương đọng trên đài hoa vương.
Quanh co bậc đá vân hường,
Tóc ai phơ phất dòng hương cõi thiền.
Chùa Văn Chương hiện bên triền,
Mái rơm nhàn nhạt dáng hiền như như.
Đón nàng vào mái Tâm Hư,
Vách treo dòng kệ Thiền sư cảm đề (1880)
Ngoài hiên hoa nép mây kề,
Tiểu đồng ngơ ngẩn bên hè xinh xinh.
Sư Thầy đương khoá giảng kinh,
Sai trò dâng xuống riêng bình trà thơm.
Sửa sang hoa quả khay sơn,
Lên Chùa lễ Phật bướm vờn loanh quanh.
Cầu tre qua suối trong lành,
Hoa rơi nước cuộn, hoa cành nước in.
Sườn cao vách tím ngàn sim,
Thuyền câu bến nước sào im cắm chờ.(1890)
Trần gian riêng mộng riêng thơ,
Riêng u uẩn núi, riêng hờ hững Xuân.
Vẳng đâu sáo quyện suối thần,
Vườn mai hiện mấy văn nhân thưởng trà.
Tao đàn cao giọng ngân nga,
Thiền sư khoác áo nâu già trầm ngâm.
Tiếng kêu vi vút sơn lâm,
Hoa nghiêng cánh lẳng, hoa thầm nụ khai.
Dừng chân ven suối Thiên Thai,
Âm âm giải nước thay lời luyến thương.(1900)

Nhớ khi đón lại huyện đường,
Thỉnh Thầy giảng lý Kim Cương độ đời.
Hoặc khi chuyện nước chuyện trời,
Mỗi lời nghe lại mỗi lời thanh cao.
Tiên dung đạo cốt tiêu dao,
Xét ra sư đệ, nghĩ vào tương tri.
Ung dung khi đến khi đi,
Lòng như khối ngọc lưu ly sáng loà.
Trong năm nhờ thỉnh Thầy qua,
Du phương người để cánh hoa võ vàng.(1910)
Sáng nay đầm ấm xuân quang,
Hành hương mới có dịp sang thăm thầy.
Lưng non man mác dòng mây,
Trắng in đáy suối, vàng xây thành cầu.
 
Tranh phụ lục: Thư pháp Truyện Kiều- Trần Ngọc

XVIII. KHÓI MỜ NGOÀI SONG

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 07/03/2008 11:08:57 am
XVIII. KHÓI MỜ NGOÀI SONG 

Bức thứ mười tám: 
(Kiều gặp tên tôi tù, chính là gã Bán Tơ
từng giá hoạ cho cha nàng.Gã cho biết
vườn Thuý bây giờ đang rao bán, 
Vương ông cho lão hầu về chuộc lại) 

Kiều nằm trằn trọc canh thâu,
Tóc mây cài nửa trăng sấu nhạt phai.
Lá lan phơ phất hiên ngoài,
Bóng in vẽ một nét mày quạnh hiu.
Lòng chia trăm mối nghìn chiều,
Gió vô tình để tiêu điều lệ hoen. (1920)
Nhớ từng kỉ niệm thân quen,
Trái tim ấm chút lửa đèn ban sơ.

Hình ảnh

Bao năm tưởng đã phai mờ,
Bỗng dưng gặp gã bán tơ năm nào.
Một hôm cai ngục trình vào,
Một tên tội phạm xanh xao mặt mày.
Xét trong hành trạng người này,
Xưa buôn tơ lụa là tay lẫy lừng.
Gặp cơn bình địa bỗng dưng,
Thế là sản nghiệp lên từng khói mây. (1930)
Nửa năm lính thú đoạ đày,
Trốn về rồi bị huyện này giữ giam.
Tấm thân từ tội cơ hàn,
Nghe tin sét đánh bàng hoàng bên tai.
Vợ con đã chết vì ai,
Hết lăn lộn, lại nằm dài rên la.
Sáng nay nàng mới nhận ra,
Đứa làm tan cửa nát nhà ngày xưa.
Là thằng vu vạ Bán Tơ,
Quẩn quanh nào có ai ngờ gặp nhau.(1940)
Gió sương điểm bạc mái đầu,
Mắt sưng chín mọng trái sầu đỏ hoe.
Hấn ngồi nhổ cỏ bên hè,
Xương trơ như nắm xương tre rã rời.
Kiều nhìn, cổ những nghẹn lời.
Thấy chi ngoài một mảnh đời đau thương.
Nàng dò tin tức cố hương,
Hắn rằng có bạn buôn thường lại qua.
Mới hay vườn Thúy quê nhà,
Chủ đang rao bán chờ ra kinh kỳ. (1950)
Vui buồn hồi tưởng những khi,
Gia đình bàn soạn tính về cố thôn.

Ông Vương tóc giải hoàng hôn,
Thở dài lặng ngắm khói dồn ngoài sông.
Hiện ra gốc ổi gốc bòng.
Bên tàng hoa khế tím hong nền chiều.
Lòng ông đau xót bao nhiêu,
Mỗi cây là mỗi ít nhiều vấn vương.
Mả mồ ở chốn quê huơng,
Lạc loài nắm đất tà dương giãi dầu. (1960)
Bà Vương lặng lẽ đâm trầu,
Tưởng khi dòng nước con cầu đón đưa.
Thiếu gì kẻ dạ người thưa,
Ngày xưa ai đó, bây giờ là ai ?
Vả chăng xứ lạ quê người,
Riêng tư là thói người nơi thị thành.
Quê nhà dù cất mái tranh,
Mà trong thân tộc, mà quanh bạn bè.
Hiền hoà khóm trúc bờ tre,
Vẳng lên tiếng cuốc sang hè gọi khan.(1970)
Canh cua hoa lý điểm vàng,
Vại cà muối xổi nồng nàn thơm cay,
Trời còn cao đấtcòn dày,
Có ao rau muống, có đầy chum tương.
Thân già lãng đãng bóng sương,
Tuổi trời còn lại mấy nương nắng chiều.
Luống khoai, bãi sắn ít nhiều,
Tự tay trồng tỉa muôn chiều thiết tha.
Còn hơn dinh thự nguy nga,
Nhà cao cửa rộng vẫn là của công. (1980)
Tưởng khi vác cuốc thăm đồng,
Mắt bà rơm rớm hai tròng lệ vui.
Còn Kim vẻ mặt bùi ngùi,
Trầm ngâm mắt vọng chân trời xa xăm.
Vân ngồi thêu áo băn khoăn,
Lòng chia hai ngả, khó khăn thốt lời.
Tiểu Nguyện vừa ghé tới nơi,
“Mẹ ơi con chẳng muốn rời bà đâu”
một nhà bàn tán giờ lâu,
sau cùng ông gọi lão hầu lên sai.(1990)
Sẵn sàng tay nãi sớm mai,
Trở về quê cũ dặm dài gió đưa.
Hỏi xem vườn Thúy bán chưa,
Liệu mà tâu lại – vàng đưa về liền.

Kiều nằm thao thức thâu đêm,
Ánh trăng bạc giắt đầu thềm gió sông.
Nhớ Thầy học cũ – Hồ Ông,
Ngày xưa đèn sách – vẫn mong hậu trình.
Thường khuyên: “Mình đã loạn mình,
Cái tâm khiến lụy cái hình lao đao.(2000)
Truyền đời xây tiếp tâm lao,
Cùng giăng bẫy quỷ - cùng nhào khe ma.
Khổ, Vui – từ một cái Ta,
Đã vào tật bệnh, tất ra mê trường.
Thấp- Cao, Chân- Giả, Đoản- Trường,
Chấp tranh máu lệ đau thuơng dẫy đầy.
Biến người thành cỏ thành cây,
Kéo luôn thần thánh tiếp tay tội đồ.
Cánh buồn phù thế lo xô,
Càng chan chứa mộng – càng cô quạnh đời” (2010)

Hình ảnh

Kiều đưa năm ngón rã rời,
Ngó tay mình mĩm nét cười bâng khuâng.
Nàng nghe lòng nhẹ lâng lâng,
Tiếng chim ngoài vọng trên tầng mây cao.
Chim di phiêu bạt phương nào,
Có qua ăn trái rừng đào sớm mai.
Hỏi dùm sứ giả Như Lai,
Làm chi cho sạch trần ai cát lầm.
Làm chi phổ nguyện Quan Âm,
Hay riêng sen trắng giữa đầm đủ chưa ?(2020)
Hay rồi một trận gió mưa,
Bùn đen kia hẳn không chừa đài hương.

Trăng ngoài lấp lành cành sương,
Nhoa nhìn trăng nép bên tường đùa vui.
Dưới hoa dế hát ngậm ngùi,
Trăng nghiên tai lắng – viền tươi ngọc ngà.
Một trăng đẹp bấy nhiêu hoa,
Mà trăng có biết đâu là – là đâu...
Ngàn năm vò võ mạch sầu,
Nửa ngâm đáy mắt, nửa chầu non xanh.(2030)
Xin trăng soi dọc lộ hành,
Xin trăng chỉ hướng tựu thành mà đi.
Mốt mai cất bước từ ly,
Trăng núi biếc, lệ xanh rì hàn giang.
Một lòng trăng rộng mênh mang,
Trăng đâu riêng của một nàng lầu cao.
Nửa trăng lặn dưới vườn đào
Còn xin nguyên nửa tan vào mộng ta.
 
Tranh : Thư pháp Truyện Kiều-Trần Ngọc

XIX. NÀNG RẰNG SUỐI CHẢY

Gửi bàigửi bởi tranngoc » 07/03/2008 11:15:43 am
XIX. NÀNG RẰNG SUỐI CHẢY. 

Bức thứ mười chín: 
(Đã tậu lại vườn Thúy, ông bà Vương, 
Thuý Kiều và hương Nhi sửa soạn về quê cũ.
Vương Quan ghé lại thăm nói về Ẩn Lan) 

Cuối Xuân đường rụng đầy hoa,
Cánh rơi tưởng nụ mây sa bềnh bồng. (2040)
Kiều ra tựa cửa ngùi trông,
Đồi cao đã trắng mấy bông lau chiều,
Bên dòng lảnh tiếng chim kêu,
Qua cầu vó ngựa rơi đều tà dương.
Cổng tre mái ngói ráng hường
Cánh không buồn khép gió vương ơ hờ.
Tiếng ve trong cõi sương mờ,
Ngâm theo xác lá lơ thơ rụng vàng.
Hương nào theo gió tìm sang,
Như chim cánh vượt dặm tràng hoa rơi.(2050)
Tin nhà đã gửi tới nơi,
Việc xong, lão bộc lên mời về quê.
Phòng riêng sửa soạn bộn bề,
Xôn xao lòng nhớ, não nề lòng xa.
Vương ông cùng với Vương bà,
Thuý Kiều cùng một trẻ là Hương Nhi.
Sửa sang hành lý mang đi,
Mốt mai thắng ngựa trở về cố hương.
Lòng nàng dan díu nhớ thương,
Bước chân tưởng những dặm trường sắt se.(2060)
Chia tay khóm liễu bờ tre,
Sụt sùi cây cỏ còn nghe lệ trầm.
Thôi từ tạ nhé tri âm,
Như sương ta cũng âm thầm nát tan.
Sớm mai phơi chuỗi ngọc lam,
Trang nghiêm một thoáng nhân gian bọt bèo.
Kìa sao thiên lý tiêu điều,
Vẽ chi những nét đăm chiêu ngậm lời.
Nhánh hoa u mặc ngó trời,
Một thân bên giậu mĩm cười héo hon.(2070)
Mây chiều lã xuống sườn non,
Dáng như lác đác hồn con hạc về.
Nửa vàng lau lách sầu chia,
Nửa xanh mây khói đầm đìa mang mang.
Giải hồng cuồn cuộn bến giang,
Buồm dong đôi tấm ráng vàng ngàn xa.
Thành Tây ải đỏ lạc hà,
Theo thuyền man mác cỏ hoa dương chiều.
Vàng ơi chi lắm tiêu điều,
Xanh ơi ngăn ngắt qua đèo hàn san.(2080)
Tím ơi cỏ nội ngút ngàn,
Màu gieo cuối bãi, màu tan ngọn triền.
Chim quyên xuống đất sầu riêng,
Mặt trời thu một hồi chiêng lửa hồng.
Xe ai đẩy hát bên đồng,
Tiếng ca bán rượu từng không lạnh bầu.
Dáng Kiều thơ thẩn vườn sau,
Dấu chân gieo nhẹ dấu sầu vẩn vơ.
Gió vàng áo nhạt màu mơ,
Hoàng hôn toả ngọn khói mờ ai un.(2090)
Cỏ êm đã thoảng tiếng trùng,
Hoa cau hương quyện vài chum nước ngần.
Gió chiều cũng nhớ giai nhân,
Quẩn quanh theo với bước chân tìm gì.
Rào tre lả ngọn tường vi,
Tiếng quen ngâm mấy câu thi ngoài đường.
Nàng trông ra thấy chàng Vương,
Ung dung dắt ngựa buộc cương dưới đào.
Hoa hiên cũng lả cánh chào,
Hiên lam Kiều đón em vào vấn an.(2100)
Vương rằng: “Rong ruổi quan san,
Ngựa đeo trăng lạnh, gió tan sương chiều.
Cho dù thất suối tam đèo,
Chút hương hoa cũ ướp theo mấy ngày.
Mới về em vội qua đây,
Ẩn Lan gửi lượng trầm này kính dâng.
Hình ảnh
Ngó em – Kiều lại thêm mừng,
Hoa in đáy mắt còn rưng rưng lòng.
Nhà Thầy bên động Huyền Không,
Mái tranh tàng ần thu đông mịt mờ. (2110)
Tóc người đã bạc như tơ,
Bạn thân chim tụ, quân cờ hoa rơi.
Sớm lên đào thuốc dong chơi,
Chiều về dạy học khắp nơi tụ hiền.
Danh thơm đã nức mọi miền,
Làng trong mến chuộng, quan trên nể vì.
Chẳng ham quyền tước kinh kỳ,
Thong dong gậy trúc, đến ,đi ngoài vòng.
Rượu thơ phơi phới một lòng,
Trà thơm viết sách, suối trong ngâm mình. (2120)
Xin Thầy được đón về dinh,
Sớm khuya vẹn nghĩa sư sinh một nhà.
Thác rằng tuổi đã nua già,
Núi non mến cảnh, cỏ hoa mến người.
Ẩn Lan giờ vẫn đẹpp tươi,
Một chiều bên suối ngỏ lời hằng mơ.
Chỉ bông hoa nở ven bờ,
Nàng rằng: “Suối chảy có chờ đâu hoa.
Nhắc chi chuyện cũ đôi ta,
Ngày nay Lan vẫn như là ngày xưa (2130)
Vị gì chung nắng chia mưa,
Giũ thơm mộng cũ ngày chưa ngọc vàng.

Kiều nghiêng ngồi tựa hành lang,
Gió lùa tóc quyện theo làn hương bay.
Hoa cà ráng ướp hiên Tây,
Sao hôm vừa mọc trên cây suơng chiều.

Tranh Thư pháp Truyện Kiều-Trần Ngọc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét